Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2010

HOC THUYET MAC-LE: VU KHI GIET NGUOI HANG LOAT

CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG CỘNG SẢN

Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Regean, vào cuối thập niên 80, khi các dân tộc Nga và Đông Âu đứng lên lật đổ chế độ độc tài toàn trị, diệt chủng cộng sản, có nói : « Lịch sử nhân loại có nhiều trang sử đau thương và đẫm máu. Nhưng chưa có trang sử nào đau thương và đẫm máu bằng trang sử cộng sản. Dân tộc Nga và các dân tộc Đông Âu đã can đảm đứng lên lật qua trang sử đau thương của mình, để viết lên những trang sử mới. Các dân tộc khác còn dưới chế độ cộng sản, hãy can đảm đứng lên lật qua những trang sử cộng sản, để viết lên những trang sử tốt đẹp cho tương lai, trang sử của tinh thần quốc gia, dân tộc, tự do, dân chủ và nhân quyền. » Từ đó, có người cho rằng chế độ cộng sản là chế độ tàn hại nhất của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng. Có phải thế không. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét nguyên nhân và hậu quả của nó.

I) Hậu quả giết người, diệt chủng, tàn hại văn hóa và văn minh của chế độ cộng sản.

Ngày hôm nay, hậu quả giết người, diệt chủng, tàn phá văn hóa, văn minh của chế độ cộng sản không những những người không cộng sản nhìn thấy, mà cả những người cộng sản sáng suốt, chân thật. Ông Robert Hue, cựu Tổng Bí thư đảng Cộng sản Pháp, hiện vẫn là cộng sản, trong quyển sách « Chủ Nghĩa Cộng Sản : Sự Đột Biến Mới », có viết : « Chủ nghĩa Staline đầu tiên và chắc chắn là một thảm họa của nhân loại : cả triệu nạn nhân, sự khủng khiếp của những trại tập trung, tính cách rừng rú, man rợ của những cái gọi là tòa án ; quả là một chế độ giết người. » ( Communisme : la Mutation – trang 97 – Ed Stock – Paris).
Thật vậy, theo Stéphane Courtois và một số sử gia Pháp, tác giả quyển Cuốn Sách Đen về Chủ nghĩa Cộng sản ( le Livre noire du Communisme), thì nạn nhân của chủ nghĩa này lên đến cả trăm triệu người. Theo bản Nghị Quyết 1481 của Hội Đồng Âu Châu gồm 46 nước ngoại trừ Bìélorussie, đuợc biểu quyết với 99 phiếu thuận và 42 phiếu chống, kết án chế độ cộng sản là một chế độ diệt chủng, nạn nhân của chế độ này trên toàn thế giới là : Liên sô, 20 triệu ngưới ; Trung cộng, 65 triệu ; Việt Nam, 1 triệu ; Bắc Hàn, 2 triệu ; Căm bốt, 2 triệu ; Đông Âu, 1 triệu ; Châu Mỹ La tinh, 150 000 ; Phi châu, 1,7 triệu ; A Phú Hãn, 1,5 triệu.
Con số này so với thực tế còn là ít. Chỉ riêng Việt Nam, con số thực tế phải gấp ba bốn lần. Đối với Trung Cộng, gần đây bà Chang Jung và nhà sử học John Halliday có xuất bản quyển Mao trach Đông, nói về cuộc đời của ông này, thì số nạn nhân của họ Mao phải kể ít nhất là 70 triệu người.
Nhưng có người hỏi : Tại sao như vậy ? Nguyên do tại đâu ?

I I) Nguyên nhân của chế độ giết người cộng sản

Có người nói nguyên nhân của chế độ diệt chủng cộng sản chỉ bắt đầu từ Staline và các con cháu sau này. Có người cho rằng nguyên nhân xâu xa của chế độ này bắt đầu từ K. Marx, qua tới Lénine, Staline và những lãnh đạo cộng sản sau này như Mao trạch Đông, Hồ chí Minh.
Thật vậy, hành động thường được hướng dẫn bởi tư tưởng, nhất là những hành động lâu dài và chủ ý. Những hành động, kế hoặch giết người cộng sản chính là bị hướng dẫn bởi tư tưởng của Marx, mặc dầu ông không chủ trương giết người ; nhưng vô tình hậu quả tư tưởng của ông đã trở nên giết người.
Tư tưởng của Marx giết người ở chỗ quan niệm rằng lịch sử là lịch sử của bạo động và của đấu tranh giai cấp.
Trong Kinh Thánh có câu : « Nó tự ru ngủ bằng những lý luận đơn giản, sai lầm và ảo tưởng. Nó tự khoác vào người nó một bộ áo đạo đức giả ; nhưng bản chất chính thật của nó là lưu manh, lừa đảo, giết người. Nó đã hạ thấp hình ảnh cao thượng của con người xuống hàng bò sát và rắn rết. » Câu này đã được viết cả bao ngàn năm, nhưng nay suy ngẫm cho lý thuyết của Marx và những người cộng sản, thì vẫn còn đúng.
Trong khuôn khổ bài này, tôi không thể đi xâu vào việc phê bình lý thuyết của Marx, xin mời quí Vị coi những bài của tôi trên những báo Việt ngữ hải ngoại như những bài Phê bình Marx trên phương diện triết học, Sự hồ đồ của Parx trên phương diện khoa học theo K. Popper, Sự không tưởng của lý thuyết Marx. Tuy nhiên tôi có thể nói một cách ngắn gọn tổng quát là nếu chúng ta suy ngẫm lý thuyết cũng như việc làm của từ K. Marx cho tới những giới lãnh đạo cộng sản, thì chúng ta thấy họ là những người nói một đằng làm một nẻo, việc làm không bao giờ đi đôi với lời nói. Chúng ta bắt đầu bằng K. Marx. Chính ông nói lý thuyết của ông thực tiễn, không không tưởng, phương pháp của ông thực tiễn, đi từ cái gì thực tiễn, đơn giản, đến cái gì phức tạp, trừu tượng. Thực tế không phải vậy. Chính ông mới đi từ cái gì thiếu thực tiễn, không tưởng, ông đi từ một lời tiên tri, tiên tri rằng nhân loại sẽ đi tới thế giới cộng sản, thế giới đại đồng, làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Từ đó, ông đã dồn hết nỗ lực, sức học và nghiên cứu của mình để biện minh cho ý tưởng không tưởng trên bằng cách bóp méo lịch sử, bẻ cong kinh tế, vặn vẹo xã hội học. Một cách đơn giản chúng ta bắt đầu bằng lịch sử và kinh tế.
Về lịch sử Marx viết lịch sử là lịch sử bạo động và đấu tranh giai cấp.
Chúng ta không cần đi đâu xa, một cách cụ thể và thực tiễn, chúng ta bắt đầu bằng lịch sử của chính chúng ta, của những người chung quanh chúng ta, rồi đến lịch sử của các dân tộc, của con người nói chung. Chúng ta tự ngẫm chúng ta sinh ra đâu phải là những người thích bạo động, chúng ta thích hòa bình và yên thân hơn, ngay cả lịch sử của những dân tộc cũng vậy, thời gian hòa bình dài hơn là thời gian chiến tranh, bất đắc dĩ mới phải chiến tranh. Nguyên điểm này chúng ta đã thấy lý thuyết của Marx không thực tiễn. Hơn thế nữa Marx cho rằng lịch sử của nhân loại là lịch của đấu tranh giai cấp và giản tiện hóa chia xã hội thành 2 giai cấp, lấy tiêu chuẩn kinh tế để định, đó là giai cấp nắm phương tiện sản xuất kinh tế và giai cấp không có phương tiện sản xuất. Nếu thực tế, thực tiễn mà quan sát, thì xã hội chia ra nhiều giai tầng khác nhau, chứ không phải 2 giai cấp, và không phải chỉ có yếu tố kinh tế quyết định. Giai tầng trí thức đâu có phương tiện sản xuất, Những nhà tư tưởng, triết gia, những nhà đạo đức đâu có giầu có, nhưng họ có ảnh hưởng rất mạnh trong xã hội. Lý thuyết của Marx không những không thực tế, thực tiễn, mà còn đơn giản hóa mọi vấn đề, rồi đưa lên thành định luật, cho đó là khoa học, nhưng chẳng koa học một chút nào.
Về kinh tế, chúng ta cũng chẳng cần lý luận dài dòng, chúng ta chỉ lấy chủ trương của Marx bãi bỏ quyền tư hữu để ròi suy luận. Marx viết trong Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng Sản : « Người cộng sản có thể tóm lược lý thuyết của mình trong một câu duy nhất : Bãi bỏ quyền tư hữu. » ( Sách đã dẫn – trang 36) Đây mới là một quan niệm thiếu thực tế, thực tiễn và vô cùng ảo tưởng. Không cần nói dài dòng, chúng ta chỉ cần nhìn thực tế tại các nước cộng sản, cảnh cha chung không ai khóc, ruộng chung không ai cày và nhà chung không người chăm sóc, thì chúng ta cũng rõ. Hơn thế nữa, Marx đã lầm ở chỗ cho rằng quyền tư hữu có thể bãi bõ, nhưng quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ có thể chuyển nhượng. Quyền tư hữu đang ở trong tay của toàn dân, nay một số cán bộ cộng sản, lợi dụng thời cơ, cướp chính quyền như Lénine, Mao, Hồ, rồi áp dụng lý thuyết của Marx, thực hiện những cuộc đánh tư bản mại sản, bảo rằng bãi bỏ quyền tư hữu, nhưng thực tế không phải là vậy, mà đã chuyển nhượng quyền tư hữu từ toàn dân, vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ. Dân đùng một lúc trở thành vô sản, đúng theo danh từ của Marx đã dùng, và các ông cán bộ đùng một cái trở thành những ông tư bản thật giàu có. Hố ngăn cách giàu nghèo giữa toàn dân và các ông tư bản đỏ thật to lớn. Ở điểm này quan niệm cách mạng tất yêu của Marx lại đúng, nhưng không đúng với các nước tư bản, mà lại đúng với những nước cộng sản. Xin quí Vị xem thêm bài của tôi Cách Mạng tất yếu không xảy ra tại các nước tư bản, mà cách mạng tất yếu đã xẩy ra và còn xẩy ra ở những nước cộng sản.
Lý thuyết của Marx chỉ là một lý thuyết đơn giản, sai lầm và ảo tửơng. Lý thuyết đơn giản, sai lầm và ảo tưởng này lại bị một số người bản chất là lưu manh, lừa đảo, quỷ quyết, giết người dùng nó như tấm bình phong để che dấu bản chất thật của mình. Nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật. Những hành động dã man giết người của những chế độ cộng sản từ từ được người dân biết đến và được phơi bày ra ánh sáng. Chính vì vậy mà có nghị quyết 1481 của Hội Đồng Âu châu lên án chế độ cộng sản là một chế độ diệt chủng. Chúng ta nên nhớ trong 46 nước Âu châu, ngoại trừ Bìlorussie, các nước kết án chế độ cộng sản nhất, chính là những nước cộng sản cũ. Gần đây, Hung Gia Lơi có kỷ niệm trọng thể ngày 50 dân Hung nổi lên chống chế độ cộng sản vào năm 1956, có mời 5 vị nguyên thủ của những nước trước đây là cộng sản, không những vị lãnh đạo, mà cả báo chí cũng như dân qua những cuộc thăm dò ý kiến thì phần lớn đều cho rằng kinh nghiệm cộng sản là kinh nghiệm đau thương và đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc họ.

Nguyên nhân xâu xa của những trang sử cộng sản đau thuơng và đẫm máu là lý thuyết của Marx. Nguyên nhân gần đó là lý thuyết đơn giản, sai lầm và ảo tưởng này đã bị một số ngừơi có quá nhiều lòng hận thù như Lénine, Mao và Hồ áp dụng, rồi sau đó được tiếp tục bởi những người con cháu, vừa hận thù, vừa vô học, một loài quỉ, tiếp tục. Nói như ông Lê xuân Tá, cựu cán bột cộng sản, cựu phó Trưởng ban Khoa học và kỹ thuật Trung ương đảng :
« Sự ngu dốt và thấp hèn tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng nếu nó được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành quỉ nhập tràng. Và nó ý thức rất mau là cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh ; nên nó đã đánh những thứ này tàn bạo, dã man, không thương tiếc. Nhưng cũng vì là ngu dốt và thấp hèn, nên những thứ này lâu ngày đã trở thành sọi mật, sạn thận, sơ gan cở chướng trong ngục phủ ngũ tạng trong lòng chế độ, làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. »

Thật vậy, những chế độ cộng sản còn lại ở Tàu, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba sớm muộn sẽ sụp đổ, điều nàu này ai cũng thấy. Nhưng những dân tộc đó hãy can đảm đứng lên đấu tranh, làm thế nào cho nó sụp đổ càng sớm càng tốt, để những cảnh đau thương do những con quỉ lãnh đạo gây ra, sớm chấm dứt.

Paris ngày 17 /7/2006

Chu chi Nam

DUONG LOI CONG SAN: CUOP CHINH QUYEN-THU TIEU LAN NHAU-TAN SAT NHAN DAN

CỘNG SẢN : LOÀI CỎ DẠI, LOÀI TRÙNG ĐỘC

Vào cuối tháng 7/2007 vừa qua, khi viếng thăm nước Đức, tại thành phố Hambourg, trước một cử tọa cả ba, bốn chục ngàn người, Đức Dalai-Lama, đã nói : « Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh sống và nẩy nở trong rác rưởi của cuộc đời. » Tại sao như vậy ? Chúng ta hãy cùng suy ngẫm về lời nói của một Vị Lãnh tụ Tôn giáo quan trọng.

I ) Cộng sản, loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh

Thật vậy, nếu chúng ta xét sự ra đời của những chế độ cộng sản, từ cộng sản Liên sô, qua cộng sản Đông Âu, tới cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam ; chúng ta thấy tất cả những chế độ cộng sản trên đều ra đời trong hoàn cảnh hoang tàn của chiến tranh, đều do cướp chính quyền mà ra, không có một chính quyền nào do dân bầu lên, rồi chúng tự bầu với nhau để tiếp tục cầm quyền. Cộng sản Liên sô thì ra đời trong hoàn cảnh hoang tàn của Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918). Cộng sản Đông Âu thì ra đời trong cảnh hoang tàn của Đệ Nhị Thế Chiến ( 1939-1945), dưới gót giày của quân đội chiếm đóng Liên sô. Cộng sản Tàu và Cộng sản Việt Nam cũng ra đời trong hoang tàn của Đệ Nhị Thế Chiến, với sự giúp đỡ của Liên Sô.
1 ) Chế độ cộng sản Liên sô được ra đời trên sự hoang tàn của Đệ Nhất Thế Chiến

Thật vậy Đệ Nhất Thế Chiến gồm 2 phe chính : phe Pháp với sự hỗ trợ của Anh, của Nga thời chế độ quân chủ của Nga Hoàng Nicolas I I và sau này có Hoa Kỳ ; phe Đức có sự hỗ trợ của đế quốc Áo Hung, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Vào gần cuối cuộc chiến, Bộ Tham Mưu Đức nhận thấy không thể đương đầu cùng một lúc với 2 mặt trận : mặt trận đông bắc với Nga và mặt trận tây nam với Pháp, muốn dồn lực lượng vào mặt trận chính tây nam, nên đã tìm cách đưa Lénine lúc đó đang ở Thụy Sỹ về và giúp đỡ Lénine cướp chính quyền ; vì Lénine đưa ra khẩu hiệu : « Hòa bình bằng bất cứ giá nào, ngay cả nhượng đất để có quyền . ». Ngày 17/4/1917, Lénine cùng một số người trong đó có 4 viên tình báo Đức nói thông thạo tiếng Nga, trong một chiếc xe lửa bọc sắt, đã tới Pétrograd. Sau đó Lénine được Đức giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để họat động. Đêm ngày 6 rạng ngày 7, một số người cộng sản, dưới sự hướng dẫn của Trotski, nổi lên cướp một số công sở, trước sự lãnh đạm của dân. Sau đó chính quyên dân chủ xã hội cầm đầu bởi Kérenski bỏ trốn. Chính Trotski sau này viết : « Sau một đêm ngủ, người dân Nga đã thấy bộ mặt xứ Nga thay đổi. Cuộc cách mạng làm 7 người chết và 50 người bị thương. « (1)
Chính quyền cộng sản đầu tiên quả thật mọc lên trên hoang tàn của Đệ Nhất thế Chiến, vì sau đó độ 1 năm thì Đức bại trận.

2 ) Những chế độ cộng sản Đông Âu, Tàu và Việt Nam mọc lên trên sự hoang tàn của Đệ Nhị Thế Chiến.

a) Những chế độ cộng sản Đông Âu từ Ba lan, Tiệp khắc, Hung Gia lợi, Bảo gia lợi v. v… được dựng lên trên hoang tàn vừa của chiến tranh, vừa dưới gót giày của quân đội chiếm đóng Liên Sô.
b) Đảng cộng sản Tàu, lợi dụng cuộc Thế Chiến và Chiến Tranh Trung Nhật, nổi lên cướp chính quyền. Chính Mao trạch Đông, khi tiếp Tướng Mountbatten, Tổng tư Lệnh Liên quân ở Đông Nam Á đã nói : « Nếu không có Thế Chiến thứ Hai và Chiến tranh Trung Nhật, thì chúng tôi không có chính quyền. »
c ) Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam cũng lợi dụng sự hoang tàn của chiến tranh, nổi lên cướp chính quyền.
Thật vậy, ngày 6/8/1945, trái bom nguyên tử đầu tiên được bỏ xuống Hiroshima, 3 ngày sau 9/8, trái thứ nhì được bỏ xuống Nagashaki ; ngày 15/8, Nhật hoàng tuyên bố ngừng chiến và ngày 2/9, thì tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân đội Nhật ở Đông Dương lúc đó như rắn mất đầu. Lợi dụng cuộc biểu tình của công chức Hà Nội đòi tăng lương, đảng cộng sản đã trà chộn người vào đoàn biểu tình, cướp một vài công sở lúc ban đầu, rồi sau đó cướp chính quyền ngày 19/08/1945. ( 2)
Ngày 2/9/1945, Hồ chí Minh đọc « Bản Tuyên ngôn độc lập. » Nhưng thực tế Hồ chí Minh đã đưa dân Việt vào trong gông cùm của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản, biến nước Việt thành bãi chiến trường của cuộc tranh hùng tư bản- cộng sản, đi từ cuộc chiến 1946-1954, tới cuộc chiến 1954-1975, tiếp theo là cuộc chiến với Căm Bốt 1978, cuộc chiến với Trung Cộng 1979. Thêm vào đó, Hồ chí Minh lại nhập cảng lý thuyết Mác-Lê chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, một lời kêu gọi nội chiến triền miên, đưa đến cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau, tạo nên biết bao đau thương cho dân Việt.


I I ) Cộng sản, loài trùng độc sinh xôi, nẩy nở trong rác rưởi của cuộc đời

Pierre Joseph Proudhon ( 1819-1865), người đã được Marx (1818-1883) cho rằng có những can đảm trong việc chỉ trích thành trì kinh tế ( L’audace provoquante avec laquelle il porte la main sur le sanctuaire économique), người đã viết quyển Triết lý của sự nghèo nàn ( La Philosophe de la misère) ; và chính Marx đã trả lời lại bằng cách viết thẳng bằng tiếng Pháp quyển Sự nghèo nàn của triết học ( Misère de la Philosophie). Không ai có thể nói Proudhon là người không hiểu lý thuyết của Marx. Nhưng chính Proudhon đã chỉ trích nặng nề Marx cho rằng lý thuyết của ông sẽ trở thành một con sán lãi ( le ténîa) của xã hội. Bệnh sán lãi là một bệnh có những ký sinh trùng ở trong ruột của con người, nó hút hết những chất béo bổ, làm con người bị bệnh trở thành vàng vọt, bụng ỏng, đít beo, không thể lớn được. Xét hậu quả của những chế độ cộng sản, với đảng gồm những đảng đoàn cán bộ lấy hết những gì do dân làm mồ hôi nước mắt mà có, làm cho kinh tế và xã hội không thể phát triển được ; người ta mới thấy lời nói của Proudhon là đúng.(3)
Ông Iakolek, Ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản Liên sô cũng viết : « Cộng sản là một loài sâu bọ. Con mới đẻ nằm lên xác con già. Già già đè lên xác con trẻ.Trong đó có con khỏe nhất, leo lên chỗ cao nhất ; tuy nhiên để leo lên chỗ cao nhất, thì nó đã dẵm lên xác bao nhiêu con khác . » Xét những cuộc thanh toán nội bộ cộng sản : Staline bị vợ Lénine tố cáo là đầu độc chồng mình. Con Staline đã tố cáo Béria, Khrouschev giết bố mình. Mao trạch Đông giết Lưu thiếu kỳ và Lâm Bưu. Hồ chí Minh giết nhiều tay em để bịt miệng tông tích của mình, rồi sau lại dùng tay em Trần quốc Hoàn giết người mình muốn lấy làm vợ, đang mang dạ chửa với mình và có đứa con đầu vẫn còn sống tên là Nguyễn quốc Trung (4) ; lại có giả thuyết cho rằng Hồ chí Minh bị nhóm Lê Duẫn, Lê đức Thọ đầu độc chết; chúng ta mới thấy lời của Iakolek là đúng.
Ngày hôm nay Đức Dalai-Lama bảo rằng cộng sản là loài trùng độc sinh xôi nẩy nở ở những đống rác rưởi của cuộc đời, cũng không sai.
Thật vậy, lý thuyết của Marx chủ trương đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, khơi dậy tất cả những bản năng thú tính của con người, biến con người trở thành loài rắn rết, chỉ tìm cách sát hại lẫn nhau. Cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau ở tất cả mọi nước cộng sản theo lý thuyết của Marx đã chứng tỏ điều này.

Những dân tộc Nga, Đông Âu đã can đảm đứng lên xóa bỏ chế độ cộng sản « cỏ dại » và « « trùng độc ». Dân tộc Việt Nam hãy noi gương các dân tộc trên, can đảm đứng lên đấu tranh để cho chế độ cộng sản cỏ dại và trùng độc không còn nữa !


Paris ngày 24/08/2007

Chu chi Nam

_____________________________________

(1) Xin Qui Vi coi thêm bài Cách mạng Việt Nam trong tương lai, rút tỉa kinh nghiệm từ những cuộc cách mạng trong quá khứ, ở website : http://perso.orange.fr/chuchinam/
(2) Xin xem thêmCon Người thần thánh, thương dân yêu nước Trần hưng Đạo và con người gian manh, quỉ quyệt, buôn dân bán nước Hồ chí Minh.
(3) Xin xem Lý thuyết của Marx là thần dược hay đọc dược cùng những bài phê bình Marx
(4) Xin xem Đêm giữa ban ngày của nhà văn Vũ thư Hiên

HO CHI MINH: HAY TAO DAU OC CAM THU GIUA NGUOI VOI NGUOI, CHUNG NO SE THANH THU VAT DE SAI BAO

CỘNG SẢN, SÂU BỌ VÀ MA QUÁI ?

Ông Lê xuân Tá, cựu Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam, trong tờ báo Đối Thọai, số 3, tháng 7 năm 1994, xuất bản ở Californie, Hoa Kỳ, có viết :
« Tôi thường nghĩ : sự ngu muội và thấp hèn tự nó thường không thể gây ra tội ác. Nhưng nếu được trao quyền lực rồi cấy vào đó chất men ghen tỵ và căm thù, thì nó trở thành quỷ nhập tràng. Nó sẽ nhanh chóng ý thức được rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó lại chính là trí tuệ, học vấn, văn hóa và văn minh. Rút cục, những thứ này đã bị tấn công và chà đạp bằng một sự căm hờn điên cuồng và man rợ. Có lẽ đây là một thứ độc dược mà chủ nghĩa Cộng sản đã dùng để tiêu diệt hết kẻ thù này đến kẻ thù khác ( cải cách ruộng đất là thế, các đợt thanh trừng của Staline ở Nga là thế, tạo phản của Hồng vệ binh là thế, Khờ Me đỏ là thế… Làm sao coi đó là chuyện cá biệt ngẫu nhiên được ! ) Nhưng rồi may thay, lại chính thứ độc dược đó đã kết tụ lại thành những thứ sỏi mật, sỏi thận,xơ gan cổ chướng trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ Cộng sản, làm cho chế độ này không ai đánh cũng tự chết. »
Ông Yakolek, cựu Ủy viên Chính trị trong Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Liên Sô cũng nói :
« Cộng sản là loài sâu bọ. Con mới đẻ nằm lên xác con già . Con già đè lên xác con trẻ. Nhưng trong đó có con khỏe nhất, leo lên chỗ cao nhất. Tuy nhiên, trước khi leo lên được chỗ cao nhất, thì nó đã dẵm lên không biết bao xác con khác. « Chính vì vậy mà có người cho rằng người cộng sản là loại bất thường, xâu bọ và quỉ quái, vì họ bị tiêm nhiễm và chế độ của họ được xây dựng trên lý thuyết bất thường Mác-Lê. Có phải thế không ?

I ) Con người cộng sản là con người bất thường, xâu bọ và quỉ quái

Con người bình thường là con người coi trọng gia đình, kính trọng ông bà, tổ tiên vì là những người sinh ra bố mẹ mình ; có hiếu với bố mẹ, vì bố mẹ sinh ra mình, nuôi nấng dạy dỗ mình ; hòa thuận với anh chị em, vì họ là người cùng sống với mình, chia xẻ khó khăn, ngọt bùi với mình hàng ngày. Xa hơn nữa, người bình thường là người yêu thương quê hương, dất nước và dân tộc, vì quê hương là mảnh đất mà mình đang sống, dân tộc là người mà minh cùng chia xẻ lịch sử thăng trầm, cùng nhau kiến tạo văn hóa, văn minh. Người bình thường tôn trọng tôn giáo, vì tôn giáo là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa, văn minh, một trong những thành tố quan trọng của luân lý và đạo đức.
Trong khi đó, người cộng sản hoàn toàn ngược lại, bất bình thường, chủ trưong phá bỏ gia đình, phá bỏ quốc gia và tôn giáo, trong quan niệm tam vô, ba cái không « vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc », không gia đình, không tôn giáo và không quốc gia. Chính vì vậy mà dưới chế độ cộng sản, chúng ta thấy có cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau ; cảnh phá nhà thờ và đình chùa, giết hay bỏ tù những vị linh mục, đại đức, thượng tọa. Người bình thường, vì được giáo dục bởi gia đình, bởi tôn giáo, nên luôn trọng điều phải, không nói dối, làm điều lành, tránh điều dữ, có liêm sỉ, không ăn cướp, ăn dựt của người khác. Ngược lại người cộng sản là người vô liêm sỉ, không biết mắc cở, chỉ biết « tuyên truyền và nó dối, như lời ông Gorbatchev, cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên sô : « Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày hôm nay, tôi rất đau buồn để nói rằng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Người bình thường là người kiếm tiền do khối óc và hai bàn tay của chính mình, gầy dựng gia sản có được là do mồ hôi nước mắt của mình ; trái lại người cộng sản giầu có được là do ăn cướp và ăn cắp của người khác, của dân, đi từ chỗ ăn cướp chính quyền đến chỗ ăn cướp tài sản của dân qua những vụ đánh tư bản, mại sản, đó là lúc đầu, ngày nay thì ăn cắp qua tham nhũng, hối lộ.

Những con người cộng sản bất bình thường này đã trở thành « Quỉ nhập tràng », nói như ông Lê xuân Tá, vì nó đã được « trao quyền lực và được cấy vào chất men ghen tỵ và căm thù ». Thực vậy, nếu chúng ta xét lịch sử cộng sản và những lãnh tụ cộng sản từ xưa tới nay, từ Lénine, Mao trạch Đông, Hồ chí Minh tới Nông đức Mạnh, chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
Lénine là một người bất bình thường, vì phải sống một cuộc sống lẩn trốn và lưu vong quá lâu. Con người bất bình thường này lại được trao quyền lực và được cấy vào chất men ghen tỵ và căm thù là lý thuyết của Marx. Cuộc « Cách mạng Tháng Mười năm 1917 », thực ra chỉ là cuộc đảo chính, cướp chính quyền. Lợi dụng tình thế hỗn loạn của cuối Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918) ở xứ Nga, lúc đó Đế quốc Đức đang phải đương đầu với 2 mặt trận : mặt trận đông bắc với Nga và mặt trận tây nam với Pháp, Bộ Tham Mưu Đức muốn dồn lực lương vào mật trận chính phía tây nam với Pháp, Lénine đã đưa ra khẩu hiệu : « Hòa bình bằng bất cứ giá nào « . Chính vì vậy mà Lénine, đang sống lưu vong ở Thụy Sỹ, đã được Bộ Tham Mưu Đức đưa về, rồi giúp đỡ tiền bạc, với sự trợ giúp của Trotsky, đã đảo chính chính quyền của Kérenski, người của đảng Dân Chủ Xã Hội, do dân bầu ra ; và Lénine không những ký hòa ước ngưng chiến với Đức mà còn nhượng đất cho Đức. Nhượng đất để có quyền và giữ quyền là chuyện làm từ thời Lénine. Ngày hôm nay Cộng Sản Việt Nam dâng đất nhượng biển cho Trung Cộng để giữ quyền cũng chỉ là bắt chước Lénine.
Mao trạch Đông là người thù ghét gia đình, nhưng cũng có quyền lực nhờ ở họng súng, theo đúng quan niệm « Chính quyền ở trên đầu súng » của ông ta.
Hồ chí Minh cũng không khác, coi thường gia đình. Theo quyển « Đêm giữa ban ngày « của Vũ thư Hiên, thì Hồ chí Minh muốn lấy bà Nông thị Xuân, nhưng bị Bộ Chính Trị đảng Cộng sản ngăn cấm. Tuy nhiên ông đã có một người con trai với bà này, hiện nay vẩn còn sống, tên là Nguyễn tất Trung, và bà này lúc đang có chửa, bị tay em của họ Hồ là Bộ Trưởng Nội Vụ Trần quốc Hoàn hiếp dâm, rồi đánh bể sọ, vất ra đường phố Hà Nội, định ngụy trang là xe cán chết. Nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật, từ từ đưọc phơi bày. Một con người đã dịnh lấy một người phụ nữ làm vợ mình, có con với bà ta và bà ta lại đang mang dạ chửa, thế mà để tay em đánh chết, nhưng vẫn dưng dưng. Đây có phải là một con người hay không hay là loài ác quỉ ? Con người bất bình thường Hồ chí Minh cũng được trao quyền lực và được cấy vào men ghen tỵ, căm thù là lý thuyết Marx. Thật vậy, họ Hồ sống lang bạc kỳ hồ, được Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản thâu nhận, rồi được huấn luyện cướp chính quyền ở trường Đông Phương bên Liên Sô. Lợi dụng tình thế sau Đệ Nhị Thế Chiến ( 1939-1945), họ Hồ đã được Đệ Tam Quốc Tế gửi về cướp chính quyền Trần trọng Kim lúc bấy giờ.
Những con người bất bình thường này đã được trao quyền lực và được thấm nhuần lý thuyết bất bình thường của Marx, nên đã trở thành loài quỉ, loài xâu bọ, nói như Yakolex : « Cộng sản là loài xâu bọ, con mới đẻ nằm lên xác con già. Con già đè lên xác con trẻ. Nhưng trong đó có con khỏe nhất, leo lên được chỗ cao. Tuy nhiên, trước khi leo lên được chỗ cao nhất, thì nó đã phải dẵm lên xác không biết bao con khác ». Nếu chúng ta xét những cuộc đấu đá nội bộ cộng sản để cướp quyền, giữ quyền từ xưa tới nay, thì chúng ta sẽ rõ. Staline giết Lénine, theo lời tố cáo của vợ Lénine, rồi giết Trotski để cướp quyền và giữ quyền. Sau đó Béria, Giám Đốc Tình Báo, Bộ Trưởng Nội vụ, người mà có lúc Staline coi như kế vị và định gả con gái cho con trai Béria ; ông này đã thông đồng cùng với Khrouschev giết Staline ; rồi Khrouschev lại giết Béria, để nắm quyền.
Mao trạch Đông giết Lưu thiếu Kỳ, người thứ nhì của đảng cộng sản và được coi như người kế vị lần thứ nhất, sau đo lại giết Lâm Bưu cũng là người được coi là kế vị, để giữ quyền hành.
Hồ chí Minh giết Tạ thu Thâu và « tất cả những ai ngăn cản bước tiến quyền lực của tôỉ », như chính lời ông tuyên bố, theo quyển Hồ chí Minh, mà tác giả là một ký giả Pháp, Jean Lacoutue.
Sở dĩ những con người bất bình thường này đã trở thành quỉ là vì chúng được thấm nhuần lý thuyết bất bình thường của Marx.

I I) Lý thuyết Mác Lê là lý thuyết chủ trương hận thù

1) Lý thuyết của Marx bất bình thường vì chủ trương hận thù, đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử. (1)
Lịch sử được định nghĩa là cuộc sống của một người, một nhóm người, một cộng đồng như một quốc gia hay lớn hơn là toàn thể nhân loại ; là sự ghi chép lại những cuộc sống đó, những biến cố quan trọng. Nếu chúng ta định nghĩa như vậy, thì bình thường cuộc sống của con người, của một cộng đồng là hòa bình chứ đâu phải bạo động, lúc nào cũng chiến tranh. Chiến tranh chỉ là cái gì bất bình thường. Chúng ta có thể lấy lịch sử của 2 quốc gia Pháp và Đức, 2 quốc gia thù nghịch nhau nhất, là nguyên nhân xa gần và cũng là tác nhân chính của 2 cuộc Thế Chiến. Mặc dầu vậy, chiến tranh cũng chỉ là cái gì bất bình thường của 2 quốc gia này. Lịch sử bình thường của họ là không có chiến tranh, mà là hòa bình.
Marx và Engels viết : « Lịch sử của mọi xã hội cho tới ngày hôm nay chỉ là lịch sử của đấu tranh giai cấp. » ( Marx và Engels – Le Manifeste du Parti communiste – trang 19- nhà xuất bản Union générale d’Editions-Pars – 1962) Khi viết câu này vào năm 1947, xuất bản ở bên Anh vào năm 1948, Marx mới có 29, Engels mới có 27 tuổi, vì Marx sinh năm 1818, Engel sinh năm 1820. Hai người có thể biết nhiều về lịch sử Âu châu, về lịch sử Cách mạng Pháp 1789, nhưng chắc chắn không thể biết tất cả lịch sử của những nước khác trên thế giới, vì còn trẻ quá để đọc nhiều, và cũng không đủ chín chắn để suy ngẫm về cuộc đời của chính mình và về lịch sử nói chung. Và ngay dù lịch sử Âu châu cũng không thể đi từ cái nhìn đơn giản hóa lịch sử qua cuộc Cách mạng Pháp 1789, với đấu tranh giai cấp. Thiếu gì cảnh những ông lãnh chúa, hai anh em tranh ngôi vua, mang quân đánh nhau. Đó không phải là lịch sử hả ? Hay 2 anh em, 2 ông lãnh chúa ở giăi cấp khác nhau ?

2) Lý thuyết của Marx bất bình thường vì chủ trương đoạn tuyệt với quá khứ, đoạn tuyệt với tư tưởng cổ truyền

Marx viết : « Từ đó, chế độ cộng sản phá hủy mọi chân lý muôn thửơ ; nó bãi bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải thiện ; nó đi ngược lại tất cả mọi hình thức phát triển lịch sử trước nó… Cách mạng cộng sản là sự đọan tuyệt tuyệt đối với chế độ tư hữu cổ truyền; không có gì phải ngạc nhiên, nếu trong tiến trình phát triển của nó, cách mạng cộng sản đoạn tuyệt tuyệt đối với những ý tưởng cổ truyền. » ( Sách đã dẫn – trang 44).
Không nói đâu xa, chúng ta chỉ suy ngẫm về đời sống của chính cá nhân chúng ta. Ngày hôm nay, hiện tại, chúng ta đang nói, đang viết, nhưng cái chúng ta nói, chúng ta suy nghĩ, chúng ta viết không phải chỉ là hiện tại, mà liên quan đến quá khứ, là tích tụ cái gì chúng ta đã học được từ bố mẹ chúng ta, từ nhà trường, từ xã hội ; và cái chúng ta đang nói, đang làm sẽ có ảnh hưởng đến tương lai. Đối với một xã hội, một văn hóa, văn minh cũng vậy. Người ta có thể ví đời sống một con người, một xã hội, một văn hóa, văn minh như một cái cây : rể cây là quá khứ, thân cây là hiện tại và cành lá là tương lai. Để cho cây lớn, rễ cây phải ăn xâu vào lòng đất để hút nhựa, thân cây phải to lớn để chuyển nhựa, cành lá phải rườm rà để hút không khí thập phương. Ngày hôm nay người ta ý thức rất rõ là đoạn tuyệt với quá khứ là tiêu hủy văn hóa và văn minh, chẳng khác nào như cắt đứt rễ một cái cây ; bảo tồn văn hóa, văn minh là sáng tạo văn hóa và văn minh. Chủ trương đoạn tuyệt với quá khứ của Marx chính là cắt đứt rễ cây vậy (2). Tất nhiên chúng ta cũng không thể nào lúc nào cũng quay về quá khứ. Những chế độ, văn hóa văn minh quá quay về quá khứ cũng đi đến chỗ tự tiêu diệt. Việc chính là biết quay mạnh về quá khứ, nhưng cũng hướng mạnh về hiện tại và tương lai. Can đảm sửa sai quá khứ và dũng cảm chấp nhận những thách thức của hiện tại. Lịch sử các dân tộc phát triển mạnh đã chứng minh như thế. Dân tộc Nhật bảo tồn văn hóa rất mạnh ; nhưng cũng chấp nhận canh tân rất sớm và rất dữ.

Lý thuyết của Marx quả thật là một lý thuyết bất bình thường, và đã được những con người bất bình thường như Lénine, Mao trạch Đông, Hồ chí Minh v.v… cướp được chính quyền, rồi mang áp dụng nó. Hậu quả là đã đưa đến thảm họa của nhân loại với 100 triệu nạn nhân của những chế độ cộng sản. Những dân tộc Nga Sô, Đông Âu đã can đảm đứng lên đấu tranh để chấm dứt chế độ bất bình thường cộng sản. Dân tộc Việt Nam, Tàu, Bắc Hàn, Cu Ba hãy can đảm đứng lên, noi gương các dân tộc trên, đấu tranh chấm dứt chế độ cộng sản, thì mới có thể trở về bình thường và mới phát triển được.

Paris ngày 11/05/2006

Chu chi Nam

Thứ Tư, 9 tháng 6, 2010

THANG TAU CONG HOI THANG VIET CONG: TAI SAO MAY GIET DAN CUA MAY MA CHUNG MAY TU HAO LA GIET KE THU? BAC MAO DA DAY CHUNG CON LAM THE DAY

Cách đây hơn 20 thế kỷ, vào thời Xuân Thu, nhà binh pháp số một của nhân loại là Tôn Tử có nói (đại ý): “Chiếm được thành quách mà không chiếm được lòng người thì cũng kể là thất trận”. Cuối thế kỷ thứ 20, một lãnh đạo tinh thần hàng đầu của thế giới là bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare với hàng triệu thành viên, cũng nhắc nhở: “Những chiến tích không có tình yêu thì chỉ tày là mây khói”.

Trong những ngày này, tại Việt Nam và tại các đại sứ lãnh sự quán của Việt cộng trên khắp hoàn cầu, nhà cầm quyền Cộng sản đang tưng bừng tổ chức cái gọi là “35 năm phóng giai miền Nam”. Những đoạn phim, những hồi ký phía CS về ngày 30-04-1975 được chiếu đi chiếu lại, nhắc đi nhắc lại để cho toàn dân trong nước thấy được “cuộc chiến thắng dưới sự lãnh đạo của đảng CC”.

Quả là có một “chiến thắng” khi chiếc xe thiết giáp T54 của Cộng quân húc đổ cổng Dinh Độc lập, đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, và khi toàn bộ Quân lực miền Nam buông súng. Tiếp theo đó là những lời huênh hoang của các lãnh đạo CS đương thời, nào là “Đế quốc Mỹ đã mua trận”, nào là “Từ đây lịch sử sẽ có một cột mốc mang tên: Thế giới sau VN!”, nào là “Trong 10 năm tới chúng ta sẽ vượt Nhật, và 15 năm tới sẽ vượt Mỹ” v.v…. Men “chiến thắng” của CS cũng bày tỏ qua nhiều hành động đáng được ghi vào lịch sử: xua đuổi hoặc giết bỏ các thương binh VNCH để chiếm lấy các quân y viện, trục xuất khỏi nhà thân nhân các quân cán chính miền Nam không may có cơ ngơi hơi khá to đẹp, kìn kìn khuân vác chuyên chở bao tài sản công lẫn tư ra miền Bắc, chia chác cho nhau đất đai nhà cửa của kẻ thua trận, gọi đấy là chiến lợi phẩm, tìm cách “mượn vĩnh viễn” vô số cơ sở của các giáo hội… Tuy nhiên, đó chỉ mới là những hành động ăn cướp kiểu đột xuất. Phải ăn cướp có chính sách thì mới chứng tỏ ta là người chiến thắng oanh liệt! Thế là những chủ trương thâm độc ra đời: nào là “xây dựng kinh tế mới” để tước đoạt nhà cửa của cư dân thành thị miền Nam, nào là “cải tạo công thương nghiệp” để cướp bóc và phá hủy hạ tầng cơ sở đầy hữu hiệu của nền kinh tế tư bản, nào là “cải tạo tư tưởng chính trị” để đọa đày hàng triệu quân cán chính VNCH -tài nguyên đất nước- trong vô số trại tù khủng khiếp mang mỹ danh lừa dối “trại cải tạo”, để tống ra khỏi mọi cơ quan công quyền, mọi cơ sở giáo dục ở miền Nam những “đầu óc ngụy độc hại” vốn cũng là nguyên khí quốc gia, để tịch thu phá hủy bao kho tàng văn hóa từ văn chương, âm nhạc tới mỹ thuật, từ tủ sách thư viện tới thánh thất miếu đình, từ lễ hội nhân gian đến lễ hội tôn giáo, nào là “san bằng lợi tức, thực hiện công bình xã hội” qua mấy chiến dịch hoán đổi tiền, đăng ký vàng nhằm mục đích vét sạch túi nhân dân và vô sản hóa quần chúng ngoài đảng. Đó là chưa kể chủ trương bán bãi, săn lùng người vượt biên chỉ nhằm mục tiêu chủ yếu là cướp nữ trang vàng bạc của những ai không chịu đựng nổi chế độ mà muốn thoát ra nước ngoài.

Và đây chính là một trong những dấu hiệu của việc chiến thắng trở thành chiến bại. Sự thất bại này có nhiều mặt. Trước hết thất bại về mặt nhân tâm. Ngay trong những tháng ngày hấp hối của chế độ Sài Gòn, hàng triệu người miền Nam đã dùng đủ mọi cách để vào nam, “chạy giặc CS”, trốn “đoàn quân giải phóng” như trốn ôn dịch. Sau đó vài tháng là hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn, rồi cả triệu người dân miền Nam (những ai có cơ may và phương tiện), thậm chí cả một số dân miền Bắc, đã “bỏ phiếu bằng chân”, liều mạng tìm đường thoát khỏi “thiên đường xã hội chủ nghĩa” bằng tất cả mọi phương tiện. “Nạn thuyền nhân” như tên gọi hiện giờ là những trang bi hùng nhất của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Hiện nay, cuộc đào thoát khỏi chế độ vẫn còn tiếp diễn, dưới hình thức kết hôn với Việt kiều, du học không về nước, đoàn tụ theo diện bảo lãnh, làm công nhân xuất khẩu rồi trốn ở lại… Nhưng trước đó phải kể đến sự thất vọng, ngỡ ngàng và đau xót của bao chiến binh hay dân thường miến Bắc lần đầu tiên vào được miền Nam, thấy được cảnh sống sung túc, bầu khí tự do, trình độ phát triển và tinh thần nhân bản của VNCH. Ai quên được những giòng nước mắt tức tưởi của nhà văn Dương Thu Hương ngồi xuống bên vệ đường thành phố Sài Gòn tháng 5 năm ấy, và lời tuyên bố cay đắng sau đó của bà: “Cuộc chiến giải phóng miền Nam là cuộc chiến ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc”. Nhạc sĩ Tô Hải, một người từ trong lòng chế độ ở miền Bắc, cách đây khá lâu cũng nhận định: “Đây là sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho một chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người đang âm mưu làm Vua của cái nước Việt Nam khốn khổ này bằng chiêu bài Độc lập, Tự do mà ở các nước người ta đã có từ nửa thế kỷ trước nay rồi, vì người ta may mắn thay đã không có đảng Cộng sản cai trị!” Ông còn nói thêm về cái động lực gây nên cuộc chiến đó là chủ nghĩa cộng sản: “Đấy chính là một tà giáo đại bịp nhất trong lịch sử loài người mà những tên lãnh tụ tối cao của chúng dựa vào đó để gây chiến tranh nồi da xáo thịt, để tiến hành âm mưu hiểm độc tiêu diệt mọi lòng tin khác, mọi nhận thức, mọi tình cảm, mọi tình yêu, kể cả lòng yêu nước của con người!”.

Tiếp đến là thất bại về mặt kinh tế. Những chính sách như cải tạo công thương nghiệp, đưa miền Nam hòa nhập vào nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, những chủ trương như đổi tiền, tự sản tự tiêu, ngăn sông cấm chợ, bãi chợ đông đồng… thập niên 1975-1985 đã đẩy đất nước đến bờ vực thẳm. Cuộc “đổi mới kẻo chết” do toàn dân uất ức đòi hỏi (chứ không do nhận định sáng suốt của đảng như CS tuyên truyền) đã đưa đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, tự do buôn bán làm ăn sản xuất khiến người dân dễ thở hơn một chút. Nhưng cũng vì thòng cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, dành ưu tiên cho “kinh tế quốc doanh, công ty nhà nước”, dựa nguyên tắc “đất đai nhân dân chỉ có quyền sử dụng” (còn quyền quản lý -thực chất là quyền sở hữu- thuộc nhà nước, thuộc đảng), đưa ra những chương trình quy hoạch đất đai, mở rộng đô thị, xây dựng khu chế xuất, mời gọi đầu tư nước ngoài… bất chấp sự bảo vệ môi trường, sự an sinh của dân chúng, sự tôn trọng tài sản công dân, sự đồng bộ trong kế hoạch phát triển, cộng thêm nạn “quy hoạch treo”, “lãnh chúa địa phương”, “cường hào ác bá”… tất cả đã tạo nên một thiểu số tư bản đỏ giàu sụ, sống xa hoa, thuộc giai cấp thượng lưu, bên cạnh một thiểu số trung lưu và đại đa số nhân dân bị đẩy vào giai cấp hạ lưu nghèo khổ… Đất nước hiện sống còn nhờ dựa vào việc bán tài nguyên (, mượn vốn quốc tế, trông chờ kiều hối hải ngoại…

Thất bại về mặt ngoại giao quốc phòng. Năm 1975 chiến thắng nhờ đàn anh Trung Cộng, (TC), Việt cộng (VC) càng hí hửng tin vào tình quốc tế vô sản, nghĩa đồng chí anh em (niềm tin này có từ thời tên quốc tặc HCM). Thế nhưng bang giao quốc tế chỉ là vấn đề quyền lợi dân tộc, nghĩa tình cộng sản chỉ là cá lớn nuốt cá bé, trong tội ác (nhất là tội ác xâm lăng) không có đồng chí mà chỉ có đồng lõa, sẵn sàng phản bội nhau khi chia chác chiến lợi phẩm. Liền sau chiến thắng, Trung cộng đã đòi trả nợ. Khổ nỗi đầu óc bành trướng đại Hán chỉ đòi trả bằng đất đai. Thế là VC phải để yên cho TC xây dựng Hoàng Sa mà chúng đã chiếm của VNCH một năm trước đó. Tới năm 1979 lại đành mất một số cao điểm chiến lược trên vùng biên giới phía Bắc. Năm 1999 rồi 2000 lại dâng tiếp cho quan thầy gần cả ngàn km2 lãnh thổ và trên mười ngàn km2 lãnh hải. Năm 2008 lại để cho Tàu vào tận trong đất nước qua dự án khai thác bauxite Tây Nguyên, qua chủ trương cho thuê rừng quốc phòng và rừng phòng hộ. Song song đó là để cho lân quốc Bắc phương, kẻ thù truyền kiếp, xâm lấn quốc gia về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị. Chiến thắng cho độc lập tự do đâu chả thấy, chỉ thấy đất nước, nhất là Bộ Chính trị đảng, ngày càng vào trong cái rọ của Tàu đỏ.

Thất bại về mặt chính trị. Ngay từ thập niên 70-80, đã có những cuộc nổi loạn của nhiều tổ chức vũ trang muốn phục quốc, những phản kháng bất bạo động của một số thường dân hay tín đồ bị chèn ép, sự bất mãn của nhiều chiến binh, cán bộ thấy mình bị lợi dụng xương máu, lường gạt lý tưởng… Đến cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, phong trào phản kháng tại quốc nội và ở hải ngoại ngày càng dâng cao. Nhiều nhóm, khối, tổ chức, chính đảng phi cộng và chống cộng trong nước xuất hiện. Họ mạnh mẽ tố cáo những tội ác, vạch trần những sai lầm của chủ nghĩa, chế độ và chính đảng CS. Họ truyền bá cho dân những ý niệm về tự do, nhân quyền, công bằng, dân chủ, để nêu bật tính đàn áp, phi nhân, bất công, độc tài của chế độ. Nhiều tín hữu và chức sắc, nhiều tổ chức và cộng đồng giáo hội cũng đứng lên, một mặt kêu gào tự do tôn giáo, một mặt đòi hỏi công lý nhân quyền, qua những bài quan điểm, những buổi cầu nguyện, những cuộc tập hợp, những lần biểu dương trước tòa, những chiến dịch bất tuân dân sự… Mới đây lại có phong trào tố cáo sự can thiệp của CS vào nội bộ tôn giáo và sự thỏa hiệp của một số chức sắc quan trọng. Vô số trí thức và sinh viên học sinh cũng tổ chức những cuộc xuống đường chống ngoại xâm lẫn nội xâm, thiết lập những trang dân báo điện tử, những diễn đàn liên mạng để bày tỏ chính kiến trước những vấn đề của đất nước xã hội, hình thành những tổ chức dân sự, phi chính phủ (hay tự giải thể) để bày tỏ lập trường…. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng ngày càng nêu cao chính nghĩa của tự do dân chủ, tinh thần của VNCH qua vô số hoạt động như tẩy chay tham dự, biểu tình phản đối những gì là của Việt cộng, như hiệp thông bênh vực, ủng hộ tài trợ cho phong trào dân chủ trong nước, như thông tin cho quốc tế, vận động các chính khách về mặt thật chế độ, hiện thực Việt Nam…

Tất cả những điều trên cho thấy sau 35 năm, những ai và cái gì mới thực sự chiến thắng. Như trong tôn giáo, người chiến thắng là vị tử đạo kiên cường giữ vững đức tin dù phải bị bắt quỳ trước kẻ ngồi ngai bách hại, thì trong chính trị xã hội cũng vậy, người chiến thắng là người đang xác tín, đang theo đuổi và đang nỗ lực thực hiện các giá trị dân chủ nhân quyền, dù tạm thời bị tà lực độc tài đàn áp. Bởi lẽ chiếm được thành, được nước mà không chiếm được lòng người như Tôn Tử nói thì chiến thắng cái nỗi chi???

BAN BIÊN TẬP




Ngày 30 Tháng Tư Nhìn Lại
Nguyên Thạch

Sau ba mươi lăm năm Việt Nam thống nhất,đất nước gom về một mối mà tập thơ “Vô Đề“ có diễn đạt “Một mối hận thù, một mối đau thương“.

Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc,từ đời các vua Hùng dựng nước cho tới thời điểm này, đất nước ta chưa bao giờ thảm bại như hôm nay. Hãy ôn lại qua từng thời kỳ và sự di hại của nó để hiểu rằng Việt nam là một đất nước cô đơn và dân tộc Việt là một dân tộc bất hạnh.

1975-1986. Giai đoạn của sự hoang mang và tàn phá khủng khiếp

Để thực thi cái gọi là kinh tế tập trung, một trong những lý thuyết cơ bản của chủ nghĩa xã hội hoang tưởng, bọn mù quáng ngông cuồng đã cho ra đời chủ trương hợp tác xã, cho mọi ngành mọi nghề, đẩy toàn bộ xã hội gần như là thụt lùi về thời công xã, gây bao hoang man lo sợ cho cả nước. giai đoạn mà những thứ vô tri vô giác như cây cột điện cũng muốn ra đi. Một giai đoạn mà trong lịch sử chưa hề có số lượng người bỏ nước lánh nạn đông đảo, làm rung động trái tim của cả thế giới.

Một thời, mà chính người cộng sản cũng phải hổ thẹn, nhục nhã,cố tình lẫn tránh, không dám đề cập hoặc nhắc tới hình ảnh đen tối này. Nhưng với bản chất gian dối và kiêu ngạo,họ không hề có một lời xin lỗi trước quốc dân đồng bào về những sai lầm nghiêm trọng đó.

Đổi mới

Sau chuỗi dài những bài học thất bại thê thảm, để cứu vãn chế độ,nhà cầm quyền cho áp dụng nền “Kinh tế thị trường“ với cái đuôi “Theo định hướng xã hội chủ nghĩa“, một thứ lý luận lấp liếm, ngụy biện vu vơ. Điều này,đã nói lên rằng kinh tế XHCN là một nền kinh tế què quặt, thảm bại. Câu dân gian “Xuống Hố Cả Nút“, đã nói lên trọn vẹn cái ý nghĩa của nó.

Đất nước hẹp dần

Độc đảng cộng sản mà quyền lực được thu gọn trong tay chính trị bộ,15 khuôn mặt đần độn, má bỉnh da chì, sẵn sàn cúi đầu quì gối trước thiên triều đại Hán để mong được sự bao che và ban ân huệ. Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng-Trường Sa, vịnh Bắc Bộ, đất rừng các tỉnh dọc biên thùy và sâu trong nội địa, Beauxite Tây Nguyên đều bị hiến dâng cho ngoại bang để được nắm giữ quyền lợi cho cá nhân và băng đảng.

Kinh tế tụt hậu

Dưới sự lãnh đạo của một guồng máy nhà nước trì trệ, u muội, quan liêu, sau ba mươi lăm năm không chiến tranh mà nền kinh tế vẫn lẽo đẽo mò mẩm theo đuôi các nước lân bang trong khu vực, xa tít từ ba đến năm mươi năm, thì việc sánh vai với các nước tiên tiến là chuyện hoang tưởng xa vời.

Đó là chưa nói đến nguồn tài trợ lớn mà nhà nước Việt Nam không cần phải trả lại cả vốn lẫn lời. Một số tiền cho không, nhờ vậy mà đảng đã cầm được hơi cho tới hôm nay.

Chính trị độc tài

Mang trong đầu tư duy của phong kiến Tàu và tư tưởng Mác-Lê, bằng mọi cách phải cướp chính quyền, hùng cứ giang sơn mỗi nhóm một tỉnh, một huyện để chia nhau hưởng lợi hầu bù lại những tháng năm gian nan khổ nhọc. Ban tư tưởng văn hóa trung ương cùng các báo đài ra rã hằng ngày, chẳng qua chỉ là một lối mị dân, chứ chẳng phải vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Phương thức ngụy biện nhằm che dấu ý đồ của gián điệp của Trung Cộng mà ngay cả những năm tháng khởi đầu dậy binh, Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng dâng bản công hàm ngày 14 tháng 09/1958, một văn kiện công nhận Hoàng Sa ( Tây Sa )- Trường Sa ( Nam Sa ) thuộc quyền Trung Cộng. Cuộc hải chiến oai hùng của hải quân VNCH từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 01/1974 trong sự làm ngơ của Bắc Việt là những minh chứng hùng hồn nhất cho hành động bán nước. Còn nữa, chẳng phải Tố Hữu tự phát mà có những câu nô dịch như: “Bên nay biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương“, hoặc:

“Giết, giết nữa đi bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xì ta Lin bất diệt“.

Theo đuổi một nền chính trị bưng bít, hẹp hòi,sắt máu, không chấp nhận đối lập, không quan tâm đến ý kiến của dân chúng,cũng chỉ nhằm mục đích che dấu mưu lược thâm độc đó.

Một thể chế chính trị cấm người dân nêu cao tinh thần yêu nước, cấm phê phán những tiêu cực của nhà cầm quyền, bởi cho đó là “ bí mật quốc gia “!. Thử hỏi,có quốc gia nào trên thế giới lại đi cầm tù hoặc đánh đập, ngăn cấm sinh viên học sinh cùng những nhà tranh đấu thể hiện lòng ái quốc, chống kẻ thù nghìn năm phương Bắc?. Ngoại trừ Bắc Hàn, Trung Cộng và Việt Nam. Ngày nào còn sự hiện hữu của đảng cộng sản, ngày ấy Trung Cộng còn có nhiều cơ hội tốt để thực thi mưu định chiếm cứ Việt Nam.

Xã hội lừa lọc và tham nhũng

Người ta thường ví rằng “Nhà nước nào, dân chúng nấy“ hoặc “Cha nào con nấy“. Bắt nguồn từ sự gian dối của đảng cộng sản, qua những cuộc đấu tố 1953-1956, người dân bị tiêm nhiễm rằng phải thủ đoạn,phải gian dối mới được tồn tại. Ở Việt Nam, rất nhiều người nói dối tài tình y như nói thật mà không hề biết chớp mắt ngượng miệng.

Một xã hội mà sự hối lộ, tham nhũng dường như bất trị. Các quan chức từ trung ương cho đến địa phương, mọi ngành, mọi cấp, đa số đều có dính líu đến tham nhũng. Tham ô một cách có hệ thống và có bao che, nếu có chăng những vụ án thì chỉ là dơ cao đánh khẽ, rồi cuối cùng cũng được “hạ cánh an toàn“.

Đạo lý suy đồi

Là những người còn lương tri,không ai không tránh khỏi đau lòng khi nhìn thấy bao tinh hoa quí báo, tình tự tốt đẹp của khối dân tộc, được truyền giữ qua bao ngàn năm, nay đã bị đảng cộng sản hủy hoại một cách vô tâm oan uổng. Vì tranh giành với nhau để được sinh tồn, vì miếng cơm manh áo, vì tư lợi cá nhân trong một bối cảnh nghèo đói mà người ta sẵn sàng tố giác, đạp đổ lên nhau để tiến thân.Trong một xã hội mà con người chỉ biết giành giựt, thu ghém cho riêng mình, vô cảm, thờ ơ trước bao cảnh đời khốn khổ hoạn nạn khác. Một xã hội mà lương tâm không giá trị bằng “lương thực“.

Dưới sự làm ngơ của nhà nước hoặc tiếp tay chia chát với những tên tội phạm buôn người, tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em Việt Nam qua Trung Cộng, Campuchia cùng các nước khác đầy ải thanh niên đi lao nô khắp thế giới để bòn rút ngoại tệ là những câu chuyện, những hình ảnh nhức nhối, đau thương cho cả một dân tộc. Chưa bao giờ người con gái Việt Nam phải bỏ xứ, xa cha mẹ,người thân để đi lấy chồng nước ngoài Đài Loan, Nam Hàn, Singapore… và bị ngược đãi nhiều như thế. Rồi đây Việt Nam sẽ là Bò Tèn (Botel City) thứ hai. Người dân bản xứ sẽ là những đám nô lệ trên chính quê hương mình để phục tùng cho những chủ nhân ngoại quốc.

Đối diện với những sự thật

Trong hiện tình của đất nước, đây là một thời kỳ đen tối nhất của Tổ Quốc,15 tên thái thú đã và đang sẵn sàn bán đứng Quê Hương. Và đây cũng là cơ hội thuận tiện nhất cho ngoại bang Hán phiệt thôn tính Việt Nam. Tất cả người Việt chúng ta hãy sớm nhận thức nguy cơ và hãy sớm hành động trước khi quá muộn.

Chúng ta sẽ không chấp nhận và cũng không muốn nhìn thấy Việt Nam là Tây Tạng thứ hai. Còn gì ghê rợn, đau đớn bằng khi chứng kiến phụ nữ Việt Nam và con cháu của chúng ta lâm vào hoàn cảnh khủng khiếp như thế.

Trung cộng sẽ nhân cơ hội thuận tiện do đảng csVN nối giáo mà có những bước tiến nhanh, rõ nét nhất là mới đây, nhà nước công bộc chuẩn bị thỏa hiệp cho quân đội sát nhập với lực lượng vũ trang của Trung Cộng trong cái gọi là hiệp tác toàn diện, song phương quốc phòng. Thử tưởng tượng, hai binh đội, ngoại công nội đàn áp thì người dân sao gánh chịu nổi,khi trong tay không một tất sắt.

Quân đội nhân dân Việt Nam

Các anh chị mau thức tỉnh. Tổ quốc đã lâm nguy. Khi mà nền trật tự của thế giới vẫn còn hiệu lực thì việc xua hàng triệu quân đánh chiếm, tiêu diệt đội quân của quốc gia khác là điều khó mà thực hiện, nhưng việc giết từ từ, giết dần mòn cho đến hết sạch các anh chị là hành vi có thể xảy ra. Tuy nhiên,trong tương lai, cuộc tiến quân để quét sạch đối phương trong cùng một lúc thì không ai dám hứa hẹn và bảo đảm.

Có lợi thế dân số đông đảo nhất thế giới, và đường hải giới lưỡi bò, cùng lực lượng đặc công Tây Nguyên, cộng với đạo quân thứ năm trên khắp hang cùng ngõ tận của ba miền đất nước, đạo quân này với tiền bạc và uy lực,chúng sẽ nắm toàn bộ nền kinh tế và là lực lượng nội gián nồng cốt cho người anh em đồng chủng, viêc thôn tính toàn bộ Việt Nam là chuyện thời gian. Với con số khổng lồ, gần 1.500.000.000 người thì vấn đề thí vài triệu quân để hốt sạch các anh chị để bù vào đó là quân đội mẫu quốc, đó không là chuyện lạ. Họ mơ ước được di dời 50 triệu thanh niên sang mảnh đất này, lấy vợ Việt để gây giống và thuần hóa giòng máu đại Hán. Như nêu trên, thế thì đàng nào cũng sẽ chết, nếu được chết cho quê hương sinh tồn, hẳn là có ý nghĩa hơn là chết trong vô nghĩa, tủi nhục.

Công an

Các anh chị hãy sống cho tròn đạo nghĩa, là con dân thì không bao giờ quay lại bắt bớ đánh đập cha mẹ, anh em, đồng bào ruột thịt của mình. Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là việc phải làm, nhưng quay mũi súng vào nhân dân vô tội là hành động phi luân lý. Các anh chị nên biết ơn những người hy sinh bản thân để kêu gọi toàn dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, sự độc lập của dân tộc mà các anh chị là những thành viên trong lòng dân tộc ấy.

Sau ba mươi lăm năm, đất nước vẫn hiện hữu một đảng vong nô, phản quốc. Một nhà nước ươn hèn quì gối. Một quốc hội bù nhìn, đốn mạt. Một nền luật pháp độc đoán, tùy tiện. Mười lăm tên ở bắc bộ phủ chỉ là một khối thịt rữa tanh hôi, chúng không mạnh như ta lầm tưởng, nếu chúng ta, tất cả đều đồng lòng đứng dậy đạp đổ chúng ra khỏi quyền lực.

Nhìn lại đất nước sau ba mươi lăm năm, giờ Tổ Quốc đang đứng bên bờ vực thẳm. Lòng người tan tác với bao nỗi hoang man lo sợ, một cuộc sống với tương lai bấp bênh vô định. Trước hiện trạng dường như vô vọng ấy, 85 triệu người Việt quốc nội cùng hơn 3 triệu người Việt hải ngoại, chúng ta phải làm gì ?. Đó là câu hỏi cho những ai còn có tấm lòng cho quê hương Việt Nam thân yêu.

Tuy ba mươi lăm năm trôi qua, một chuỗi thời gian dài đầy bi đát và oan nghiệt, nhưng không vì thế mà chúng ta đánh mất niềm tin. Cả thế giới văn minh, hiện đang tập trung cô lập Trung Cộng mà Mỹ là quốc gia có chiến lược dẫn đầu. Bởi Trung Cộng là hiểm họa, là mối đe dọa cho sự ổn định của toàn thế giới. Hãy nung nấu ý chí quật cường, khi cơ hội đến, chúng ta sẽ đứng lên giành lại những gì đã mất. Ngày quang phục Quê Hương không còn xa nữa.

Nguyên Thạch


35 năm sau, những chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.

Đỗ Hiếu, phóng viên RFA

Những chiến binh thuộc hai Miền Nam-Bắc, những người đã từng là đối thủ, kẻ thù của nhau trong suốt cuộc chiến, 35 năm sau họ nói gì?

Phát triển kinh tế nhưng vẫn còn khoảng cách giàu nghèo.
Biến cố 34-4-1975 được xem là “một sự đổi đời” khiến hàng triệu người phải vượt thoát tìm tự do, trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông. Hàng triệu người khác bị cầm tù, bị xua đuổi khỏi thành thị, bị bần cùng hóa, bị tước đoạt quyền sống.
Đáp lời mời của Ban Việt Ngữ, hai cựu sĩ quan Không Quân và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân và một cựu đảng viên Cộng Sản từng được cử du học Đông Âu, trình bày những suy nghĩ của mình đối với hiện tình đất nước, sau khi đã dứt tiếng súng từ 35 năm qua; hòa bình được vãn hồi, kinh tế đang phát triển, xã hội ổn định, tuy nhiên người dân Việt cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, được chính những chiến binh của hai miền Nam-Bắc nêu lên với RFA.
Tự do, dân chủ, độc lập?
Một quân nhân Không Quân miền Nam có gần 25 năm thâm niên công vụ, cựu tù nhân cải tạo với 7 năm tù, từ California, ông Nguyễn Thanh Liêm phân tích về tình hình đất nước:
“Về mặt chủ quyền: Giáp ranh biên giới Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều bị Trung Quốc cướp mất. Trên Internet tố cáo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận hối lộ trên trăm triệu đô la cho Trung Quốc khai thác Bô Xít tại Cao Nguyên.

Về mặt xã hội: Việt Nam đàn áp một cách khốc liệt các nhà tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, luôn cả các nhà tu hành đòi tự do tôn giáo, bắt cầm tù và tra tấn trong các nhà giam. Chưa có một chính phủ nào, luôn cả thời thực dân đế quốc đô hộ, cũng chưa bằng thời nay do cộng sản cai trị; không có luật pháp, chỉ có luật rừng do họ dựng nên để đè đầu người dân Việt Nam.

Cộng sản Việt Nam cho xuất khẩu lao động đem dân đi làm nô lệ cho quốc tế, hạ nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, buôn bán phụ nữ làm vợ cho người Đài Loan, Đại Hàn, và có nhiều người phải làm vợ cho cả gia đình cha con và anh em. Trẻ em 8, 10 tuổi thì đưa sang Campuchia cho vào các động mãi dâm làm gái với khách thập phương.

Về giai cấp: Số đông dân chúng quá nghèo, thành phần giai cấp lãnh đạo thì quá giàu, một bữa tiệc gần cả trăm ngàn đô la, một chai rượu ngoại cả ngàn đô, nhà cao cửa rộng, như nhà của cựu Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu đã phô bày trên Internet.
Lời nói của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” là một câu nói bất hủ muôn đời! Cộng Sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, không xem dân miền Nam là tình ruột thịt anh em mà đối đãi như kẻ thù cần tiêu diệt. Đảng cộng sản phải giải tán, để cho nhân dân Việt Nam tự do bầu lấy một chính quyền do Dân, phục vụ Dân và lập quyền Dân.”
Thất vọng
Kế đó, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân, nhiều năm chiến đấu ngoài mặt trận từng chứng kiến bao đồng đội gục ngã, hy sinh máu xương để thực hiện chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” do Hà Nội chủ trương, ông Vũ Cao Quận nói lên niềm tâm sự của mình, được gói gọn qua hai chữ “thất vọng”:
“Tôi lúc này như ngọn nến mong manh trước gió, tắt lúc nào chưa biết, những lời nói của tôi là điều tôi nói thật. Cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam đối với tôi, khi sắp sửa ra đi với các cụ rồi, tôi chỉ đau lòng là cuộc chiến đấu đó là “nồi da xáo thịt”, hai anh em xông vào bắn giết lẫn nhau. Một bên là người Mỹ cho kẹo cao su với khẩu AR 15, một bên là Tàu với Liên Xô cho một gói lương khô với khẩu AK 47, cứ thế mà hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.
Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng. Cái chuyện đó đã qua lâu lắm rồi mà tôi thì già yếu quá, chỉ trả lời tóm tắt thế thôi.
Tôi chỉ thấy nỗi đau là cái giá hy sinh của đồng đội tôi, và kể cả các ông nữa, tôi không biết gọi như thế nào, là những người đồng đội, hai bên cùng vì Tổ quốc của mình mà bắn giết lẫn nhau. Đến bây giờ chỉ có điều là tôi thất vọng quá, có thế thôi, tôi sắp ra đi rồi, tôi không cần gì nữa, còn tôi thất vọng vì nó rồi, đồng đội của tôi chiến đấu chết nhiều quá. Những lời hô hào của họ thì đều đẹp đẽ cả, chẳng gây cho tôi một cái hy vọng gì cả, một chút hy vọng nào cả, tôi không chờ được nữa. Thế là công lao của tôi là công cóc rồi, không chờ được cái ngày ấy nữa đâu. Nhân dân ta thì vẫn khổ quá, không hy vọng gì cả.”
Đâu rồi lợi thế 35 năm?
Với cái nhìn của một nhà phân tích thời sự, bình luận chính trị, một cựu sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, ông Đại Dương đưa ra nhận xét của ông về chính sách của Hà Nội, trong hơn 3 thập niên qua, cùng các hậu quả được thể hiện rõ, hôm nay:
“Tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản đưa đất nước vào tình cảnh mà không một người Việt Nam yêu nước nào cảm thấy hài lòng, hãnh diện vì áp dụng chính sách bất dung và chọn lầm đồng minh. Hòa bình đến, nhưng, hy vọng về đất nước thanh bình, hết hận thù để cùng chung sức phát triển đã bị chính sách bất dung làm triệt tiêu có hệ thống các yếu tố góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Sách vở như chiếc túi khôn của loài người vốn tích lũy vô số kinh nghiệm bị đảng cộng sản Việt Nam đốt sạch nhằm cắt đứt sự liên hệ giữa thế hệ trẻ với sinh lực dân tộc. Chính sách bất dung dấy lên làn sóng vượt biên, thuyền nhân từ Bắc chí Nam đã vét cạn chất xám cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước phú cường.

Do đó, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phải dựa vào đồng minh để tồn tại đã khắc sâu những vết hằn đau đớn lên cơ thể Việt Nam. Việt Nam chọn Liên Xô làm đồng minh nên cho Mạc Tư Khoa toàn quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến 2004. Áp dụng chính sách hợp-tác-hóa đã dẫn dân tộc đến bờ vực nạn đói năm 1985. Việt Nam xua quân vào Xứ Chùa Tháp năm 1979 đã kích thích Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vào năm 1979.

Liên Xô tan rã, Hà Nội lại muối mặt cầu cạnh Bắc Kinh nên phải làm quà bằng các Hiệp định về biên giới và Vịnh Bắc Bộ. Từ đó, Việt Nam có một mô hình kinh tế tư bản man dại thời đại Karl Marx, cộng với kiểu kinh tế thân hữu đã bị thế giới ruồng bỏ. Vì áp dụng mô hình lạc hậu nên đến năm 2009, lợi tức bình quân chỉ có 1,000 USD. Từ 1963 đến 1995, Nam Hàn đã nâng lợi tức bình quân từ 100 lên tới 10,000 USD.

Việt Nam đang từng phút, từng giờ đứng trước mối đe dọa mọi mặt của người đồng minh “môi hở răng lạnh”. Chỉ có dân tộc Việt Nam đồng lòng mới giải tỏa được chứ không thể trông chờ vào nhà nước ù lì và bất lực.”
Thực chất của chế độ cộng sản
Một cựu đảng viên cộng sản, du học tại Ba Lan rồi trở về nước phục vụ, nay sinh sống tại thủ đô Vác Sa Va, tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi giới lao động Việt Nam ở hải ngoại, ông Trần Ngọc Thành giải thích vì sao ông rời bỏ hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam:
“Ra đi du học tại Ba Lan tôi mới bắt đầu hiểu thực chất của chế độ cộng sản là gì, tôi có rất nhiều anh chị em trực tiếp tham gia vào quân đội, có những người đã hy sinh, có những người hiện nay là thương binh. Sau này, ngày càng tìm hiểu thì tôi thấy đó là một cuộc nồi da xáo thịt của người Việt Nam đánh nhau. Người hưởng lợi chính là đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1945 thì họ cướp chính quyền tại Miền Bắc, khi đất nước chia thành hai miền sau hiệp định Geneve, họ lại bắt đầu phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Miền Nam, thực chất là họ muốn thu quyền lực về một mối, tôi rất thất vọng về chính quyền hiện nay.



Thật ra ý đồ của Hà Nội là thâu tóm tất cả chính quyền về tay người cộng sản, nhưng phải nhìn vào thực tế của đất nước, nhìn vào hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu. Thật ra từ năm 1975 đến nay, những người cầm quyền chỉ chăm chú vào quyền lợi của đảng cộng sản cũng như bản thân người cầm quyền, còn người dân vẫn là nô lệ trên đất nước mình. Cái nô lệ ở đây không chỉ nói riêng về kinh tế mà trên các mặt, người dân có quyền nói, biểu hiện chính kiến, cách nhìn của mình, nhưng dưới chế độ cộng sản họ bị nô dịch tất cả các mặt. Về kinh tế thì chính quyền cho cái gì thì dân được cái nấy, như việc hợp tác hóa, rồi sau này các chính sách khác về kinh tế là ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, cải tạo công thương nghiệp, chỉ để phục vụ một nhóm nhỏ trong chính quyền.
hật ra thì tôi không trả thẻ đảng mà tôi vất thẻ đảng, vì những người làm chủ đất nước hiện nay, thực sự chỉ là tôi tớ cho một số đảng viên cao cấp. Phần lớn người lao động hiện nay xuất thân từ nông thôn hay thành thị, từ trước tới nay bị phân biệt đối xử, về cả kinh tế lẫn mặt chính trị. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản, thay đổi chính trị tại Đông Âu là điều cần phải thay đổi để làm cho đất nước đi lên. Tôi thấy rằng, mục tiêu của chúng ta hiện nay là làm sao cho đại bộ phận người Việt Nam được no ấm.”
Qua những góp ý của các cựu chiến binh của hai miền Nam Bắc thì 35 năm sau khi chiến tranh kết thúc Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chủ trương “độc lập, tự do, hạnh phúc” được ghi trên quốc uy của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là mục tiêu do đảng cộng sản đề ra, từ khi lên nắm chánh quyền hồi năm 1945.

35 năm sau khi hòa bình được vãn hồi, mặc dù được Hà Nội đã được kết nạp vào WTO, là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là chủ tịch luân phiên của ASEAN, nhưng công luận vẫn cho là Việt Nam thiếu tự do, dân chủ, không có tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, không có nhân quyền và nằm trong danh sách những quốc gia có thu nhập thấp kém trên thế giới và trong khu vực Châu Á.