Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008

88 Đoàn Thể Cùng Lên Tiếng Khẳng Định Lập Trường về Hoàng Sa - Trường Sa



Ngày 15 tháng 12, 2007 -- Thêm nhiều đoàn thể ký tên vào bản Khẳng Định Lập Trường xác định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Tính đến sáng Thứ Bẩy, 15 tháng 12, 2007 (ngày giờ Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ), con số khởi thuỷ từ 45 đã tăng thành 88 đoàn thể, ở khắp thế giới, kể cả trong nước. Số lượng đông đảo ít thấy này đã nói lên sự đồng tâm, nhất trí của dân chúng Việt Nam trước việc Trung Cộng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài việc lên án hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Cộng, bản Khẳng Định Lập Trường đề ngày 7 tháng 12 năm 2007 này cũng vạch rõ tội trạng bán nước của đảng CSVN khi minh thị công nhận và tán thành tuyên bố về lãnh hải của Trung Cộng, gồm cả chủ quyền trên các quần đảo của Việt Nam.

Được biết các đoàn thể cũng đang phối hợp nghiên cứu một số công tác chung nhằm mục tiêu tố cáo hành động lấn chiếm trắng trợn của Trung Cộng với công luận thế giới, và vạch trần sự bất lực của đảng CSVN trong việc bảo vệ bờ cõi để dân chúng Việt Nam am tường.

Dưới đây là nguyên văn bản Khẳng Định Lập Trường và danh sách 88 tổ chức, đoàn thể với danh tánh người đại diện ký tên. Vì cần dịch bản Khẳng Định Lập Trường này ra Anh và Pháp ngữ để phổ biến đến chính giới và báo giới quốc tế, nên đây là lần đúc kết cuối cùng danh sách này./.

Bản Khẳng Ðịnh Lập Trường của Người Việt Trên Toàn Cầu
về Hai Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa

Ngày 2 tháng 12 năm 2007, nhà cầm quyền CS Trung Quốc lại đi một bước nữa trong việc lấn lướt chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khi tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Quyết định này là điểm kết của một chuỗi các hành động ngang ngược trong việc chiếm cứ các hải đảo của Việt Nam, gồm:

- Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, dùng hải quân cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa;
- Ngày 14 tháng Ba năm 1988, chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa;
- Ngày 14 tháng Tư năm 1988, tuyên bố sát nhập 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam.

Trước các sự kiện trên, chúng tôi, đại diện các đoàn thể Người Việt khắp nơi trên thế giới cùng lên tiếng thay cho những người Việt quan tâm đến đất nước:

- Cực lực lên án chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc, thể hiện cụ thể và thô bạo qua việc dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ và lãnh hải các nước lân bang;

- Hoàn toàn phủ nhận chủ quyền Trung Hoa trên các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
- Long trọng kêu gọi các quốc gia yêu chuộng hòa bình và công lý làm mọi cách để Trung Quốc hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về cho Việt Nam;

- Khẩn thiết kêu gọi dân chúng Việt Nam tích cực biểu tỏ thái độ phản đối hành vi ngang ngược của Trung Quốc, cụ thể nhất là tụ tập biểu tình trước sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc ở khắp nơi, đặc biệt tại Hà Nội và Sài Gòn.

Nhân đây, chúng tôi muốn nêu lên trách nhiệm to lớn của đảng CSVN trong việc làm mất lãnh thổ và lãnh hải vào tay Trung Quốc. Bằng chứng cụ thể là:

- Công Hàm ngày 14 tháng Chín năm 1958 do Phạm Văn Đồng ký, nhân danh Thủ Tướng Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã "công nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc".

- Nhà cầm quyền CSVN đã hoàn toàn im lặng trước việc Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa sau cuộc hải chiến diễn ra ngày 19 tháng 1 năm 1974 giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng Hoà.

Để có đủ khả năng bảo vệ giang sơn của cha ông để lại, dân chúng Việt Nam phải đoàn kết thành một khối. Sự đoàn kết này chỉ có thể đạt được trong môi trường sinh hoạt dân chủ, nhân quyền được tôn trọng, và nhân phẩm con người được đề cao. Chỉ có thế, toàn dân mới ngồi lại được thành một khối trước hiểm hoạ ngoại xâm.

Ngày 7 tháng 12 năm 2007

Các đoàn thể chính trị:

1. Đại Việt Cách Mạng Đảng (Ô. Bùi Diễm, Chủ Tịch)
2. Đại Việt Quốc Dân Đảng (TS Phan Văn Song, Chủ Tịch)
3. Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Ô. Đỗ Thành Công, Phát Ngôn Nhân)
4. Đảng Tân Đại Việt (TS Nguyễn Ngọc Sảng, Chủ Tịch)
5. Đảng Thăng Tiến Việt Nam (TS Nguyễn Ngọc Hùng, Đại Diện Hải Ngoại)
6. Đảng Vì Dân (Ô. Nguyễn Công Bằng, Đại Diện)
7. Hiệp Hội Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị, và Đa Nguyên (LS Đào Tăng Dực, Chủ Tịch)
8. Hiệp Hội Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam (TS Âu Dương Thệ, Chủ Tịch)
9. Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Đại Diện)
10. Liên Minh Dân Chủ và Nhân Quyền Việt Nam (GS Nguyễn Chính Kết, Đại Diện)
11. Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (DS Nguyễn Quốc Nam, Chủ Tịch)
12. Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ (GS Nguyễn Ngọc Bích, Chủ Tịch)
13. Phong Trào Quốc Dân Việt Nam Hành Động (Ô. Nguyễn Thành Nhân, Chủ Tịch)
14. Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (Ô. Trần Quốc Bảo, Chủ Tịch)
15. Tổ Chức Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản (BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ Tịch)
16. Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (Ô. Đỗ Hoàng Điềm, Chủ Tịch)
17. Việt Nam Quốc Dân Đảng (Ô. Trần Tử Thanh, Phát Ngôn Nhân HĐĐH/Cơ Sở VNQDĐ/Hải Ngoại).

Các đoàn thể chuyên biệt:

1. Ban Vận Động Lời Kêu Gọi Dân Chủ (GS Nguyễn Thanh Trang, Đại Diện)
2. Đoàn Thanh Niên Hồn Việt (Ô. Nguyễn Xuân Hiệp, Đoàn Trưởng)
3. Đoàn Thanh Niên Đa Hiệu Pennsylvania và Phụ Cận (TS Đỗ Nguyễn Nhật Khải, Đoàn Trưởng)
4. Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức (Ô. Lê Quang Dật, Trưởng Ban Hướng Dẫn)
5. Gia Đình Quân Cán Chánh Việt Nam Cộng Hoà/ Hoà Lan (Ô. Lê Quang Kế, Đại Diện)
6. Hiệp Hội Công Nông Đoàn Kết Việt Nam (Ô. Huỳnh Long, Phó Chủ Tịch)
7. Hội Cử Tri Việt Mỹ (Bà Jackie Bông Wright, Chủ Tịch)
8. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam (GS Phạm Trần Anh, Phó Chủ Tịch)
9. Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị Tiểu bang Pennsylvania (Ô. Nguyễn Đức Nghĩa, Chủ tịch)
10. Hội Ái Hữu Sĩ Quan Trừ Bị Colorado (Ô. Hồ Thanh Danh, Hội Trưởng)
11. Hội Cựu Chiến Binh VNCH/ Michigan (Ô. Nguyễn Thanh Vân, Hội Trưởng)
12. Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Ontario, Canada (Ô. Nguyễn Văn Tấn, Chủ Tịch)
13. Hội Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Pennsylvania và Phụ Cận (Ô. Đỗ Đức Chiến, Hội Trưởng)
14. Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Montreal - Quebec - Canada (Ô. Lê Văn Châu, Đại Diện)
15. Hội Chiến Sĩ VNCH tại Austin và Vùng Phụ Cận, TX (Ô. Đỗ Văn Phúc, Hội Trưởng)
16. Hội Khoa Học Kỹ Thuật (TS Mai Thanh Truyết, Chủ Tịch)
17. Hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền Việt Nam (Bà Jane Đỗ Bùi, Đại Diện)
18. Hội Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Ontario, Canada (Ô. Trần Quốc Thiện, Hội Trưởng)
19. Hội Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Chế độ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp (Ô. Dương Văn Lợi, Chủ Tịch)
20. Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam – Dallas/Fort Wort, TX (Ô. Trần Văn Chính, Chủ Tịch)
21. Liên Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Âu Châu (Ô. Phạm Thìn, Liên Hội Trưởng)
22. Phong Trào Hiến Chương 2000, Canada (TS Nguyễn Bá Long, Tổng Đại Diện)
23. Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn (LM Nguyễn Hữu Lễ, Đại Diện)
24. Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại (Ô. Đỗ Như Điện, Điều Hợp Viên)
25. Phong Trào Hưng Ca Việt Nam (Ô. Huỳnh Lương Thiện, Phong Trào Trưởng)
26. Tập Thể Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa (GS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
27. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam (Ô. Nguyễn Trung Châu, Chủ Tịch)
28. Tổng Hội Cựu SVSQ/Đại Học CTCT (Ô. Nguyễn Văn Mục, Tổng Hội Trưởng)
29. Tổng Hội Hải Quân VNCH (Ô. Nguyễn Xuân Dục, Tổng Hội Trưởng)
30. Trung Tâm Điều Hợp Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Âu Châu (Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, Trung Tâm Trưởng)
31. Trung Tâm Việt Nam Hannover, Cộng Hòa Liên Bang Đức (Ô. Lâm Đăng Châu, Đại Diện)
32. Ủy Ban Bảo Vệ Quốc Kỳ VNCH – Dallas/Fort Wort, TX (Ô. Cao Chánh Cương, Chủ Tịch)
33. Ủy Ban Phát Huy Chính Nghĩa Quốc Gia (Ô. Thái Hóa Tố, Chủ Tịch)
34. Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền Cho Việt Nam (Bà Nguyễn Hồng Liên, Chủ Tịch)

Các đoàn thể cộng đồng:

1. Cộng Đồng Việt Nam Hoa Kỳ (Ô. Nguyễn Văn Tần, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành, BS Trương Ngọc Tích, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát)
2. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (BS Nguyễn Mạnh Tiến, Chủ Tịch)
3. Liên Hội Người Việt Canada (Ô. Ngô Văn Út, Tổng Thư Ký)
4. Cộng Đồng Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoà Lan (BS Đào Công Long, Chủ Tịch)
5. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Arizona (Ô. Phạm Văn Sinh, Chủ Tịch)
6. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Lincoln, Nebraska (Ô. Nguyễn Xuân Đấu, Chủ Tịch)
7. Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Los Angeles (Ô. Nguyễn Duy Nghiêu, Chủ Tịch)
8. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Phụ Cận (Ô. Đỗ Minh Đức, Chủ Tịch Đương Nhiệm, LS Hoàng Duy Hùng, Chủ Tịch Đắc Cử)
9. Cộng Đồng Việt Nam Tiểu Bang Florida (Ô. Chu Bá Yến, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Bà Đồng Thanh, Chủ Tịch Ban Chấp Hành)
10. Cộng Đống Người Việt Tại Tampa Bay, Florida (Ô. Vũ Đình Vượng, Chủ Tịch)
11. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, TX (Ô. Thái Hóa Tố, Chủ Tịch)
12. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Fort Worth, TX (Ô. Nguyễn Xuân Hùng, Chủ Tịch)
13. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Lancaster PA và Vùng Phụ Cận (Ô. Lê Văn Chiếu, Chủ Tịch)
14. Cộng Đồng Việt Nam Bắc California (Ô. Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch)
15. Cộng Đồng Việt Nam Nam California (BS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
16. Cộng Đồng Việt Nam Oregon (Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch)
17. Cộng Đồng Việt Nam Miền Nam Florida (Ô. Lê Thanh Liêm, Chủ Tịch).
18. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Austin, Texas (Ô. David Nguyễn, Chủ Tịch)
19. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Đông Bắc Pennsylvania (Ô. Đỗ Đức Chiến, Phát Ngôn Viên)
20. Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, DC, Maryland và Virginia (Ô. Lý Văn Phước, Chủ Tịch)
21. Cộng Đồng Việt Nam Iowa (Ô. Phạm Cang, Chủ tịch)
22. Cộng Đồng Việt Nam tại Philadelphia và Phụ Cận (Ô. Nguyễn Đình Toàn, Chủ tịch)
23. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Hampshire (Ô. Cao Xuân Khải, Chủ tịch)
24. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tại San Antonio, TX (Ô. Nguyễn Trọng Can)
25. Cộng Đồng Người Việt Pomona Valley , CA (BS Võ Đình Hữu)
26. Cộng Đồng Việt Nam Minnesota (Cô Phượng Đào, Chủ Tịch)
27. Hiệp Hội Người Việt San Diego, CA (Ô. Trần Hùng Tiết, Chủ Tịch)


GIAN DIEP TRUNG QUOC DA LEO LEN HANG LANH DAO CUA CSVN

CHÓP BU CSVN „BÁN NƯỚC“!
MỘT TỘI ÐỒ DÂN TỘC?

Lm Gioan Baotixita Ðinh Xuân Minh

Trước khi đi vào đề tài này, người viết xin được khai triển rộng danh từ „bán nước“. Chóp bu CSVN bán nước như thế nào? „Bán nước“, gồm những hình thức nào? Tội bán nước được xếp vào tội gì?

Trong ngôn ngữ Việt Nam, trước chữ BÁN luôn đi với chữ BUÔN hay chữ MUA. Khi chúng ta nói chóp bu CSVN bán nước, thì chúng ta cũng cân nhắc danh từ BUÔN BÁN hay MUA BÁN. Vì thế, nếu muốn nói chóp bu CSVN bán nước, thì chúng ta được hiểu thêm: Chóp bu CSVN „buôn bán nước“. Không phải chỉ có BÁN xuông không thôi, mà còn có BUÔN nữa. Kẻ bán, người mua. Thế ai „MUA“? Và tại sao Quốc Hội Trung Cộng phải công khai nhận hai quần đảo này vào ngày 2-12-2007 mà không sớm hơn hoặc muộn hơn? Ai mua thì chúng ta đều đã biết. Nếu năm 2008 không xẩy ra thế vận hội Olympia ở Trung Quốc, thì chắc chắn CS Trung Quốc cũng chưa thèm bạch nhật hóa việc „mua“ hai quần đảo Trường sa và Hoàng Sa. Nhân Thế Vận Hội Olympia 2008 diễn ra, chủ nhà Cộng Sản Trung Quốc sẽ công khai trình „làng bá quan văn võ trên thế giới“: Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc về chủ quyền chúng tôi.

Bây giờ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu chóp bu CSVN „buôn bán nước“ qua những hình thức nào:

• Qua văn kiện đề ngày 14-09-1958, CSVN đã bán hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, do đại diện chóp bu CSVN là thủ tướng CS Phạm Văn Ðồng, dưới thời bạo chúa Hồ Chí Minh xác nhận qua công hàm.
• Vụ Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, từ năm 1960-1965. Hằng ngàn người bị tịch thu đất đai và bị đấu tố chết, chỉ vì đã làm chủ vài sào ruộng đất và vì họ bị kết án là địa chủ. Họ bị kết án bởi những tòa án nhân dân dã thú, với những tội danh hết sức mơ hồ. Cướp đất của dân cũng là hình thức bán nước gián tiếp. Họ hợp thức hóa việc cướp đất qua những luật pháp rừng rú. Ðó là hình thức buôn bán đất.

• Khi CS cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, chóp bu CSVN cũng bán nuớc. Hình thức „đánh tư bản mại sản“, qua những hình thức đổi tiền v.v. thì hằng triệu người dân miền Nam đã phải bán nhà chạy ra nước ngoài mà sống. Hằng triệu người đã bị cưỡng chiếm đất. Ngay cả những cơ sở tôn giáo cũng không trừ. Và đến nay, hằng triệu người dân đã trở thành „DÂN OAN“, „GIÁO HỘI PHẬT GIÁO OAN“, „GIÁO HỘI CÔNG GIÁO OAN“, „GIÁO HỘI TIN LÀNH OAN“ Và cả „GIÁO HỘI CAO ÐÀI HÒA HẢO cũng bị OAN“. Những cơ sở của Giáo hội và của dân đều bị „mượn đỡ“. Họ là những người bị CS chiếm đất bán làm của riêng.

• Rồi vào ngày 30-12-1999, chóp bu CS tự tiện ký Hiệp Uớc Lãnh Thổ, để nhường Ải Nam Quan, thác Bản Giốc và gần 1000 cây số vuông đất. Bán đất chưa đủ thoả mãn, đúng gần một năm sau, vào ngày 25-12-2000, chóp bu CSVN lại tiếp tục ký bán „NƯỚC“, lần này là CS bán „nước H20“ thật. 10.000 hải lý trên biển Ðông đã bị bán.
• Những hình thức đưa thanh niên ra hải ngoại làm „nghĩa vụ quốc tế“, để họ trở thành người nô lệ, theo hình thức „hợp tác lao động“, cũng là hình thức buôn bán nô lệ. Chóp bu CS là những ông „chủ da trắng“ bán chính dân mình kiếm tiền, để biến họ thành „nô lệ da đen mang giòng máu da vàng mũi tẹt“.

• Những hình thức „trả giá cô dâu“ để họ trở thành nô lệ tình dục. Ðây cũng là hình thức buôn người bán hôn nhân. Chưa bao giờ nhân phẩm và giá trị con người Việt Nam, nhất là giới phụ nữ Việt Nam bị xúc phạm và bị hạ nhục hơn bao giờ hết như trong giai đoạn này! Chưa bao giờ quyền lợi con người Việt Nam bị chà đạp như lúc này, từ Bắc sang Nam, từ „trong“ ra „ngoài“, từ già đến trẻ, từ những người trí thức khoa bảng trung lưu đến những „người dân ngu cu đen vô sản“ v.v. Không ngoại trừ một ai, không bỏ một phần tử nào trong xã hội. Người người, mọi người, ngay cả Quân Ðội Nhân Dân, đều là nạn nhân và là dân oan của chóp bu CSVN.

Trong lịch sử cận đại Việt Nam, thì từ khi CSVN làm „chủ nửa đất nước“ - miền Bắc – năm 1954 , thì lịch sử đã chứng minh thật rõ ràng, chóp bu CSVN đã bán nước cũng như cướp đất từ năm 1958 đến ngày nay, năm 2008, như thế nào! Dân tộc Việt Nam, từ đời Hùng Vưong dựng nước Văn Lang đến thời Nguyễn Huệ chống quân Thanh. Trải dài trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ một Triều Ðại nào đã „bán nước“ cho Bắc Triều Ðại Hán. Quá lắm chỉ là triều cống mà thôi. Ðó cũng là một cái nhục tày trời rồi, huống hồ gì đi bán nước! Trong thời „Triều đại bạo Chúa Hồ Chí Minh“ thì thật đau lòng: Dân tộc Việt Nam phải tủi nhục chứng kiến thật rõ ràng chóp bu CSVN đang bán nước 50 năm nay. Họ đang rước voi dày mồ. Năm 2008, Năm Bính Tý, dân tộc Việt Nam đánh dấu và ghi mốc lịch sử xỉ nhục này: Ðất nước đã bị chóp bu CS bán ròng rõi 50 năm qua. Năm 2008, dân tộc Viêt Nam đau thương tưởng niệm 50 năm đất nước và con người bị chóp bu CS buôn bán. Chóp bu CS không những chỉ bán đất, mà còn buôn người nữa.

Trong Kinh Thánh cũng nói về trường hợp mua đất. Kinh Thánh nói gì về ý nghĩa mua đất? Kinh Thánh kể một dụ ngôn về lý do mua bán đất như sau:
„Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong cánh đồng. Có người thanh niên kia gặp được thì liền chôn dấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua miếng đất ấy“. (Mt 13, 45).

Trong dụ ngôn ngắn ngủi này, chúng ta nhìn ra được động lực và nguyên nhân của người thanh niên nọ, đã bán hết của cải, tìm mọi cách để mua cho bằng được miếng đất ấy. Tại sao phải mua miếng đất đó bằng mọi giá, mà không mua miếng đất khác? Lý do, là vì trong miếng đất này có chôn một „kho báu“. Kho báu này, được ví như nước Trời, chúng ta gọi là Thiên đàng.

Người thanh niên „bán tất cả những gì mình có“ để mua cho bằng được miếng đất này. Anh ta phải làm như vậy, bởi vì „thiên đàng“ là giá trị tuyệt đối cao nhất trong cuộc sống của anh ta. Vì thế, bằng mọi cách anh ta phải bán „tất cả những gì“ anh có, để „mua nước trời“. „Nước trời“ là động lực và là mục đích thúc đẩy anh bán tất cả để mua miếng đất này.

Trở lại trường hợp chóp bu CSVN bán đất. Nguyên nhân nào và động lực nào đã khiến chóp bu CS phải bán đất? Mục đích là gì? Và tại sao phải như thế? „Kho báu“ của chóp bu CS là gì?

Có ba nguyên nhân CS bán nước như sau:

• Nguyên nhân thức nhất: Ðó là lòng tham vô đáy của chóp bu CSVN. Vì họ chưa bao giờ học được những gía trị đạo đức của tôn giáo, yêu thương nhân loại cùng chủng tộc, nên việc buôn dân bán đất là hành động làm thỏa mãn sự tham vọng vô đáy của họ.

• Một chế độ độc tài phi nhân bản, phi dân chủ, phi đạo đúc thì tự nó làm cho đất nước nghèo đói, nhân phẩm giá trị con người bị chà đạp. Vì thế, khi chóp bu CS đã gây ra sự nghèo đói, thì chính họ cũng phải cứu vãn sự nghèo đói này, nhưng không phải là cho người dân, cho dân tộc, song họ làm cho chính họ được thoát khỏi cảnh bần cùng lầm than này. Ðó là nguyên nhân thứ hai.

• Chóp bu CSVN đã phải bán nước, để mua „kho báu“. „Kho báu“ mà chóp bu CS tìm mọi cách phải mua cho bằng được, đó là để củng cố thế lực chóp bu của mình. Củng cố thế lực đồng nghĩa với làm giầu. Họ biến đổi thế lực để làm giầu. „Kho báu“ đối với chóp bu CSVN là họ muốn xây dựng „thiên đàng“ ngay trên trần thế này. Bằng bất cứ giá nào họ cũng phải „mua“ cho bằng được „kho báu“ này. Bán đất và buôn người đều nằm trong mục đích đó mà thôi! Hành động của chóp bu CS cũng giống tương tự như người thanh niên nọ trong Dụ ngôn kể trên. Sự khác biệt quan trọng căn bản giữa người thanh niên và chóp bu CSVN là ở chỗ: „Người thanh niên bán tất cả những gì anh ta có“, có nghĩa những gì thuộc quyền sở hữu của mình. Còn chóp bu CS thì „bán tất cả những gì có thể cướp được của toàn dân“, từ đất đai tổ tiên, từ biển hồ lai láng đến nhân sinh con người. Họ bán tất cả!

Khác với người thanh niên trong dụ ngôn. Anh ta „bán tất cả“ để mua miếng đất có „kho báu“. Còn chóp bu CSVN thì „bán tất cả“, kể cả người lẫn đất, để mua „kho báu“!

Thử hỏi, chóp bu CS bán những vùng Ẳi Nam Quan, tháp Bản Giốc và nhất là hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, thì dân tộc Việt Nam đã mất những gì?! Bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên, bao nhiêu khoáng chất hải sản và thủy sản bị mất!? Thử hỏi dân tộc Việt Nam còn lại gì? Dân Việt Nam chúng ta sẽ sống bằng gì và nhờ gì trong tương lai? Thưa, dân tộc Việt Nam chúng ta đã và đang thực hiện lời tâm nguyện của lãnh tụ gian ác Hồ Chí Minh, nhưng đáng tiếc sẽ chỉ đạt được một nữa câu đầu: „Không có (còn) gì“. Còn phần sau „độc lập tự do“ thì chẳng bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ có được dưới chế dộ CSVN. Bán nước buôn dân cho quan thầy Tầu Cộng thì làm sao làm chủ được mình mà nói gì đến độc lập!? Ðánh Mỹ cửa trước rước Mỹ cửa sau thì sao gọi là „giải phóng“ được!? Bán dân mình làm nô lệ cho người ngoại xứ thì làm sao chế độ đó có thật lòng quyết tâm xây dựng tự do!? Làm sao con người sống xứng danh là Người Tự Do được trong một thế chế u tối man dã như thế!?

„Kho báu“ của chóp bu CSVN là củng cố quyền lực! Họ sẵn sàng làm tất cả những chuyện có thể làm được, ngay cả việc bán đất buôn ngưòi họ cũng không nhớp tay.

Vì thế, chừng nào CS còn ngồi đấy, thì chắc chắn đất đai tổ tiên của toàn dân Việt Nam sẽ còn phải bị bán nữa, chứ không dừng ở thời điểm ngày hôm nay mà thôi. Còn CS là còn luôn tái diễn việc buôn dân bán nước. Ðứng dưới chế độ CS thì dân tộc Việt Nam không bao giờ danh chính ngôn thuận đòi lại đất đai của dân tộc được!

Vì thế, nếu tại hải ngoại các em du sinh cầm cờ đỏ sao vàng mà chống CS Trung Cộng, thì giống như kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Kẻ vừa bán nước xong liền hô to đổ tội cho kẻ mua là kẻ cướp đất! Trò hề hết chỗ nói! Kiểu „ăn vụng“ nhưng không „chịu chùi mép“!


Ðứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, thì chẳng bao giờ chính danh chính nghĩa đòi đất lại được. Vì thế, cũng chẳng ngạc nhiên gì, nếu du sinh, con em cách mạng CS cầm cờ đỏ. Vì họ thay cha mẹ làm dùm. Kiểu cha nào con ấy!

Chính chóp bu CS là thủ phạm! Còn CS Trung Quốc là tòng phạm.

Thế chóp bu CSVN phải xếp vào tội gì?

Tháng giêng năm 1974, mặc dù bị quân đội đồng minh bỏ rơi, quân lực VN Cộng Hòa đã anh dũng hiên ngang chống lại quân xâm lăng giặc Tầu, để bảo vệ và gìn giữ hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Ðứng trước một quân đội lớn gấp mười gấp trăm, về quân số cũng như về quân sa quân cụ, thế mà lính của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà vẫn không chịu chùn bước. Họ sẵn sàng nghinh chiến để bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình. Vừa chống ngoại xâm, vừa lo bảo vệ chống nội thù là người anh em từ Bắc xâm nhập vào. Vì vậy, chỉ đứng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, chúng ta mới đích thực chính danh đòi lại đất được mà thôi!

Thế Quân Ðội Nhân Dân thì sao, khi đứng trước vấn nạn này? Thưa, họ cũng phải anh dũng để thể hiện lòng trung với dân, hiếu với đồng bào tổ quốc mà lo bảo vệ giang sơn bờ cõi. Có làm được như vậy, thì Quân Ðội Nhân Dân mới xứng đáng là Quân Ðội Nhân Dân. Có làm được nhu vậy họ mới làm đúng bổn phận trách nhiệm và chức năng của mình là một quân đội bảo vệ quê hương tổ quốc và dân tộc. Quân Ðội Nhân Dân không phải là „lính của Bác Hồ“. „Lính Bác Hồ“ là để canh chừng „hang Bắc Phó“ của Bác. Quân đội Nhân Dân là của dân cho dân và vì dân và từ dân mà ra, vì những người bộ đội này là con cháu của đồng bào. Mà đất đai là của chung toàn dân tộc, chứ không là của riêng của tập đoàn chóp bu. Ðất đai tổ tiên là của chính những đồng bào này, mà con cái của họ đang phục vụ trong Quân đội Nhân Dân. Ðể muốn giữ nước và bảo vệ bờ cõi, thì chính Quân Ðội Nhân dân phải đánh ngay kẻ nội thù trước, vì họ là thủ phạm. Chừng nào chưa hạ bệ được nội thù khỏi „ngai vàng“, thì chẳng bao giờ chúng ta đánh đuổi ngoại xâm được. Nội thù chung của dân tộc là chóp bu CSVN. Chóp bu CSVN là NGUYÊN NHÂN CUỘI NGUỒN của mọi việc dẫn đến sự kiện buôn dân bán nước.

Ai và thể chế nào là người bảo vệ tổ quốc? Người Cộng sản hay người Quốc gia!? Ai là kẻ bán nước!? Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và người lính VNCH không phải là chính quyền bán nước. Ðiều này qúa rõ ràng! Kẻ nào bán nước buôn dân, kẻ đó là kẻ thù chung của dân tộc, mà Quân Ðội Nhân Dân là một thành phần của Dân tộc. Kẻ nào buôn dân bán nước, kẻ đó là TỘI ÐỒ DÂN TỘC.

Trước hết, toàn dân toàn quân phải thực thi đúng chức năng của mình là bất tuân phục và phải hạ bệ ngay nhóm chóp bu, kẻ nội thủ của dân tộc, đã buôn dân bán nước để vinh thân phì da.

Sau khi hạ bệ được kẻ bán đất cầu vinh xong, thì Quân Ðội Nhân Dân lập ra một chính phủ lâm thời Dân Chủ Tự Do. Sau đó có cuộc tổng tuyển cử tự do thật sự, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, với sự tham gia đóng góp của toàn dân, của mọi hội đoàn tổ chức chính trị. Có được như vậy, dân tộc VN mới mong thoát khỏi ngoại xâm và nội thù.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

1) Phiên tòa phúc thẩm xử hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ngày 27-11-2007 vừa qua tại Hà Nội.

Nhận định
nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền 10-12-2007
về một số vấn đề chính trị xã hội
thời gian gần đây tại Việt Nam

Trong thời gian qua, tại Việt Nam, đã diễn ra một số sự kiện gây nên một số vấn đề có liên hệ tới cuộc đấu tranh giành lại các quyền tự do, dân chủ cho dân tộc. Dưới đây là những nhận định của Khối 8406 về 3 sự kiện và vấn đề chính:

1) Phiên tòa phúc thẩm xử hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ngày 27-11-2007 vừa qua tại Hà Nội.

Qua phiên xử chớp nhoáng, vừa đầy tính khôi hài vừa đầy tính man rợ này (từ trong ra tới ngoài tòa án), với bản án của tòa: giảm 1 năm tù cho mỗi luật sư, trong khi thời hạn quản chế vẫn giữ y như án tòa sơ thẩm, Khối 8406 chúng tôi cho rằng:

- Chủ trương của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam: đàn áp những con người đang dũng cảm đứng lên đấu tranh, quyết giành lại các quyền tự do, dân chủ cho dân tộc, chủ trương đó không hề thay đổi. Việc họ giảm án cho 2 luật sư như nói trên là do áp lực nặng nề của công luận quốc nội và quốc tế. Đặc biệt là áp lực trực tiếp đến từ chính giới của các nước dân chủ, có nền kinh tế phát triển cao và tầm ảnh hưởng mạnh đối với nền kinh tế èo uột của Việt Nam. Động thái trên của nhà cầm quyền cộng sản chỉ nhắm giảm thiểu những áp lực đó và tiếp tục đánh lừa quốc nội lẫn hải ngoại. Nó dứt khoát không phải là kết quả của lòng phục thiện, tôn trọng công lý, cũng chẳng “xuất phát từ chính sách khoan hồng và nhân đạo của chế độ ta”, như họ vẫn thường rêu rao. Vì hai tù nhân lương tâm này không đáng bị tù một ngày nào cả!

- Thái độ bình thản, kiên cường của 2 luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân trước cả 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm cũng như hành động đấu tranh ôn hòa nhưng cương quyết của những người ủng hộ hai luật sư bên ngoài tòa án đã chứng minh một cách hùng hồn rằng: cho dù bị sách nhiễu, bao vây, ngăn chặn, cho dù bị bắt bớ, bỏ tù, xét xử bất công… tất cả các chiến sĩ dân chủ vẫn không vì thế mà run sợ. Họ chính là những người con ưu tú của đất nước, là những ngọn đuốc sáng soi con đường của dân tộc hôm nay. Họ không hề mắc tội! Ngược lại, chính những kẻ đã và đang đàn áp phong trào dân chủ Việt Nam mới là những kẻ mang tội nặng trước dân tộc và lịch sử. Những kẻ này đang run sợ, vì họ hiểu rằng ngày tàn của bạo lực gian trá, của độc tài độc đảng đang đến gần.

- Tinh thần dũng cảm, lương tâm nghề nghiệp và khuynh hướng ngày càng đậm nét dân chủ của 5 luật sư đã tham gia bào chữa cho 2 thân chủ mà cũng là đồng nghiệp trước phiên tòa xử phúc thẩm trên, rất đáng biểu dương và ca ngợi. Đây là dấu hiệu cho thấy ngành tư pháp ngày càng muốn thoát ra khỏi bàn tay công cụ hóa của đảng CSVN để trở nên một thế lực độc lập, chỉ biết đứng về phía sự thật và lẽ phải.

Nhân cơ hội này, Khối 8406 chúng tôi

- Đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả những vị đang bị cầm tù vì đấu tranh cho tự do, dân chủ bằng con đường hòa bình, bất bạo động. Đồng thời chấm dứt ngay những hành động đàn áp các nhà đấu tranh khác, như đuổi việc, tịch thu tài sản, xử phạt hành chính, theo dõi hành hung, như gây muôn vàn khó khăn trong việc cư trú, đi lại, sinh nhai, liên lạc (khóa điện thoại, cắt điện thư), như cưỡng bức thẩm vấn họ, khủng bố tinh thần thân nhân họ bằng nhiều đòn phép thâm độc, hèn hạ và bất lương… của công an Việt Nam. (Danh sách đính kèm).

- Kêu gọi các lực lượng Công an, Tòa án, Viện kiểm sát… không vì vâng lệnh đảng và nhà cầm quyền CS mà đàn áp những người yêu nước, thương nòi, không một tấc sắt trong tay. Quý vị hãy biết rằng Quý vị ăn lương của nhân dân nên có nghĩa vụ bênh vực nhân dân, nhất là bênh vực những ai đang tranh đấu vì nhân dân, cho nhân quyền, có nghĩa vụ hành xử theo lương tâm và luật pháp chứ không phải theo mệnh lệnh.

- Kêu gọi tất cả những người làm báo, đặc biệt các phóng viên, không vì đồng lương danh vọng, không vì sợ hãi khiếp nhược mà cung cúc vâng lời Đảng, dùng ngòi bút và các phương tiện truyền thông của mình để lăng nhục, khủng bố, khép tội những người đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam. Xin hãy nhớ vinh dự của Quý vị là trở thành tôi tớ của Sự thật chứ không phải là nô bộc cho độc tài!

- Kêu gọi những ai đang làm việc trong các ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp và truyền thông… hãy công khai tố cáo tên tuổi, địa chỉ, cấp bậc, chức vụ… của những kẻ chủ mưu thâm hiểm cũng như những kẻ thừa hành mù quáng cho chế độ độc tài, độc đảng hiện nay. Đồng thời kêu gọi mọi ai đang trực tiếp hoặc gián tiếp gây tội ác với những người đấu tranh hãy sớm thức tỉnh mà dừng tay lại. Quý vị hãy nhớ rằng: những kẻ đang ra lệnh cho Quý vị sẽ tìm cách bỏ chạy ra nước ngoài hết khi dân tộc chuyển mình, bởi lẽ thành phần này hiện đã chuẩn bị tài sản, nhà cửa, con cháu… của họ ở ngoại quốc. Còn Quý vị thì không có những điều kiện đó nên chắc chắn sẽ phải ở lại Việt Nam để đối diện với công lý trong tương lai gần.

2) Ba thành viên của Khối 8406 và của phong trào dân chủ Việt Nam vừa vinh dự nhận Giải thưởng Nhân quyền năm 2007 của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam hôm 7-12.

Khối 8406 xin chúc mừng ba vị là giáo sư Hoàng Minh Chính, luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân, niềm hãnh diện chung của toàn Khối và của Phong trào dân chủ. Chúng tôi ca ngợi tấm gương đấu tranh kiên cường, không hề sờn lòng nản chí, chẳng chút e dè run sợ trước chế độ độc tài cộng sản Việt Nam của giáo sư Hoàng Minh Chính, người đã dành chọn cuộc đời mình vì sự nghiệp dân chủ hoá đất nước. Chúng tôi hết lòng biểu dương hai vị luật sư nhân quyền trẻ tuổi, hậu duệ xứng đáng của Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trần Quốc Toản, Nguyễn Thái Học… tấm gương cho các thế hệ trẻ Việt Nam hiện giờ noi theo.

Nhân dịp này, và cũng nhân ngày Quốc tế Nhân quyền mồng 10 tháng 12, Khối 8406 xin nhiệt liệt biểu dương Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại hải ngoại đã có sáng kiến trao Giải Nhân quyền hàng năm nhằm vinh danh, cổ vũ những nhà đấu tranh can đảm tại quốc nội. Chúng tôi xin cảm ơn sự hiệp thông, ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình, bất vụ lợi của các chính khách, các tổ chức nhân quyền Việt Nam và quốc tế, các Nhóm hải ngoại Yểm trợ quốc nội cũng như các cá nhân lẫn tập thể mong ước tự do cho dân Việt vốn đã luôn sát cánh cùng phong trào dân chủ Việt Nam nói chung và Khối 8406 nói riêng suốt bao năm qua.

3) Chiến dịch rộng lớn của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nhằm quy chụp tội danh “phản động, khủng bố” cho một số cá nhân, tổ chức, đảng phái trong lẫn ngoài nước.

Thời gian qua, hầu như toàn bộ hệ thống thông tin đại chúng ở Việt Nam đã được tổng huy động vào chiến dịch trên, hòng chụp mũ cho một số cá nhân và tổ chức như đảng Vì Dân, đảng Dân Chủ Nhân Dân, đảng Việt Nam Canh Tân Cách Mạng (Việt Tân)… là “phản động, khủng bố” dù họ đấu tranh cách ôn hòa. Nhưng trong điều kiện thông tin ngày nay và với những người có suy nghĩ độc lập thì thủ đoạn quy chụp trên (được tăng cường thậm chí bằng việc nhét vũ khí vào hành lý Việt kiều) đã bị vạch trần trước công luận. Ví dụ ngày 31-5-2007 vừa qua, đích thân Tổng thống và phó Tổng thống Hoa Kỳ đã tiếp đại diện của hai đảng “khủng bố” là Việt Tân và Dân Chủ Nhân Dân tại Nhà trắng ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Chẳng lẽ các cơ quan an ninh, tình báo của Mỹ như F.B.I, C.I.A… lại mù quáng, ngu muội hay sao mà lại đồng ý cho các đảng “khủng bố” này vào Nhà trắng? Vậy chiến dịch quy chụp đó mang bản chất gì? Khối 8406 cho rằng đây rõ ràng là một âm mưu đen tối, thâm độc xuất phát cả từ phía lực lượng Công an Việt Nam cả từ phía nhà cầm quyền cộng sản.

a) Từ phía Công an Việt Nam:
- Với chiêu bài “bảo vệ an ninh quốc gia”, lực lượng này đã cố tình tạo ra những chiến công ảo để báo công, mừng công và đòi được nhà cầm quyền thưởng công thật. Đã có rất nhiều kẻ được thăng quan, tiến chức từ những chiến công ảo này. Qua đó, họ nhắm mục tiêu lấn át các ngành, các lực lượng khác trong bộ máy cầm quyền cộng sản, kể cả lực lượng quân đội; đồng thời buộc nhà cầm quyền phải duy trì bộ máy công an cồng kềnh, đồ sộ hiện nay. Bộ máy này đang từng ngày, từng giờ ngốn một khoản tiền lớn của ngân sách quốc gia, vốn là tiền thu nhập từ việc khai thác nguồn tài nguyên của Tổ quốc và việc đóng thuế rất nhiều thứ của nhân dân; để rồi sau đó quay lại hoành hành, tác oai tác quái lên chính nhân dân.

- Thủ đoạn xấu xa này đã được lực lượng công an Việt Nam áp dụng triền miên suốt hơn nửa thế kỷ qua. Nhà cầm quyền cộng sản biết rõ thủ đoạn ấy nhưng vẫn cứ nuông chiều họ. Bởi vì hơn ai hết, các lãnh tụ cộng sản hiểu rằng: nếu buông súng đạn, nhà tù và sự lừa mỵ nhân dân ra thì cái chế độ độc đảng, với sự độc quyền thống trị đất nước này của họ nhất định sẽ sập nhanh như 2 nhịp cầu Cần Thơ mới rồi. Đó cũng là lý do tại sao ngày 27-8-2007, ông Nguyễn Minh Triết, Uỷ viên bộ chính trị, chủ tịch nước CHXHCNVN đã phải hốt hoảng tuyên bố: “…Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 hiến pháp đi nữa thì cũng không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát…”. Đúng! Ông Triết có thể lừa dối dân tộc và thế giới nhiều điều nhưng riêng điều này thì ông ta đã nói thật.

b) Từ phía Nhà cầm quyền cộng sản:
- Muốn tạo ra một con ngoáo ộp để đe dọa nhân dân, qua lối ngụy biện rằng: nếu Việt Nam mà có biến động chính trị thì nhất định sẽ rơi vào hỗn loạn, bạo lực… do bọn “phản động, khủng bố câu kết với các thế lực thù địch trong và ngoài nước” gây ra. Qua đó có cớ để khước từ đổi mới chính trị và ép buộc dân tộc Việt Nam tiếp tục nằm trong bàn tay sắt của “Đảng vô cùng sáng suốt, chỉ một lòng vì nước vì dân” (!?)

- Hướng sự phẫn nộ của nhân dân và quốc tế sang một phía khác nhằm khỏa lấp sự yếu kém, thối nát trong việc quản lý và điều hành đất nước của họ. Sự phẫn nộ này đến từ tất cả mọi thành phần dân tộc cả trong lẫn ngoài nước, bao gồm các tầng lớp trí thức, tu sĩ, sinh viên, học sinh, công nhân, nông dân, tiểu thương, doanh nhân, công chức, cựu chiến binh… kể cả đa số người hiện phục vụ trong lực lượng công an và quân đội. Hết thảy đều thuộc tầng lớp bị trị và đang chịu cảnh đè đầu cưỡi cổ bởi một thiểu số nắm đặc quyền, đặc lợi trong đảng cộng sản Việt Nam.

- Dễ dàng qui chụp những người đấu tranh trong nước cũng là “thành phần khủng bố” khi họ liên minh, liên kết với những cá nhân, tổ chức nói trên để thực hiện việc dân chủ hóa đất nước bằng con đường bất bạo động. Ngoài ra, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cũng muốn qua chiến dịch này tìm kiếm sự đồng thuận của quốc tế. Bởi vì, theo cách tính toán ma mãnh của họ, chống khủng bố thì sẽ được cả thế giới ủng hộ.

- Thủ đoạn cố ý tạo ra kẻ thù như trên cũng đã được tất cả các chế độ độc tài cộng sản thực hành một cách triệt để và nhất quán suốt gần 1 thế kỷ qua (1917–2007). Stalin từng tuyên bố: “Chỉ có khủng hoảng mới cho phép đòi hỏi và tận dụng sự phục tùng tuyệt đối và sự hi sinh to lớn của công dân”. Không cần che giấu, Fidel Castro, lãnh tụ cộng sản Cuba gần 50 năm, cũng đã phụ họa: “Để phát triển, Cách mạng cần có phản đề, cần có kẻ thù, cụ thể là cần phải có phản cách mạng”. Họ đã làm điều này là vì hơn ai hết, họ biết rất rõ sự phẫn nộ của đại đa số nhân dân đối với chế độ bất nhân của họ. Đúng như Yuri Andropov, người từng lãnh đạo Uỷ ban An ninh nhà nước Liên Xô (K.G.B) trong nhiều năm rồi làm Tổng bí thư ĐCS LX năm 1982, đã cảnh báo các đồng chí của mình rằng: “Ở nước ta có rất nhiều nhóm dân chúng bị áp bức. Nếu ta mở ngay tất cả các van chặn và dân chúng bắt đầu nói về những nỗi khổ đau của họ thì sẽ có một cuộc đại hồng thuỷ mà ta không thể nào ngăn chặn nổi”.

Từ những trình bày trên, Khối 8406 chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng:

- Mục tiêu cuộc đấu tranh của chúng tôi là phải triệt để thay thế thể chế chính trị độc tài, độc đảng, bất công, phi dân chủ, phản dân tộc hiện nay bằng thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, công bằng và tiến bộ trong tương lai, nhằm khôi phục các quyền tự do, dân chủ cho dân tộc.

- Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động. Chúng ta có quyền tin tưởng rằng phương pháp ấy nhất định sẽ dẫn tới thành công. Trong suốt hơn 20 năm qua, thế giới đã chứng kiến sự toàn thắng của hàng loạt các cuộc cách mạng dân chủ bằng con đường này. Đó là trường hợp các quốc gia Đông Âu, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nhiều nước vùng Ban-căng như Nam Tư và Slovenia, nhiều nước ở Đông Nam Á như Philippin và Indonesia… vốn đã chuyển đổi được các chế độ từ độc tài sang dân chủ. Rõ ràng, hôm nay của các quốc gia ấy sẽ là ngày mai của Việt Nam!

- Những kẻ khủng bố dân tộc chính là tập đoàn quyền lực trong đảng cộng sản Việt Nam qua nhiều thế hệ, suốt từ ngày 2-9-1945 đến nay chứ không phải ai khác! Những việc làm có tính toán và hệ thống như: tiêu diệt các đảng phái đối lập, mở các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân miên trường, thi hành Cải cách ruộng đất nông dân, đàn áp văn nghệ sĩ và cán bộ đảng viên qua vụ Nhân văn Giai phẩm rồi Xét lại chống đảng, cướp bóc nhân dân qua chính sách Cải tạo công thương nghiệp, Hợp tác hóa, Tập đoàn hóa, Quốc hữu hóa, trả thù kẻ thua trận qua việc Học tập cải tạo, bức bách hàng triệu người Việt phải lao ra biển Đông với 2 bàn tay trắng, trên những con thuyền mong manh, định mệnh… Tất cả đều nằm trong chiến dịch đại khủng bố dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam. Và hôm nay, họ vẫn tiếp tục khủng bố dân tộc thông qua việc đàn áp các phong trào của quần chúng nhân dân đòi dân sinh, dân quyền, dân chủ…

Nhân dịp này, Khối 8406

- Kêu gọi các lực lượng dân tộc, dân chủ, nhân quyền cả trong lẫn ngoài nước hãy đoàn kết, siết chặt đội ngũ hơn nữa. Kiên quyết không để bị mắc mưu chia rẽ, phân hóa của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Đồng thời đề nghị các cá nhân, tổ chức có điều kiện hãy phiên dịch và phổ biến những bài báo, những tuyên bố của giới lãnh đạo, người phát ngôn… ở Việt Nam có nội dung xuyên tạc, vu cáo các cá nhân, các tổ chức, các chính trị gia nước ngoài, để thế giới biết được thói gian trá này của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam: ai ủng hộ họ mà không đặt vấn đề dân chủ, nhân quyền thì được họ hết lời ca ngợi. Ngược lại, nếu ai dù ủng hộ họ nhưng lại đặt điều kiện về nhân quyền, dân chủ, nhân quyền thì ngay lập tức họ nổi đóa lên và sau đó bôi nhọ, phỉ báng không tiếc lời.

- Phát động ra toàn thế giới chiến dịch hủy bỏ điều 4 hiến pháp nước CHXHCNVN. Xin các cá nhân, tổ chức, chính đảng, cộng đồng người Việt hải ngoại quảng bá và ủng hộ cho chiến dịch này ngay giữa đồng bào và khắp quốc tế. Vì điều 4 ấy thừa nhận cho đảng CSVN được quyền độc tài độc đảng độc trị vĩnh viễn; một cái quyền phi lý, phi pháp, nguồn gốc và nguyên nhân đầu hết của mọi sa sút, tụt hậu, bất công, đàn áp, thống khổ, cơ cực mà dân tộc và đất nước Việt Nam đang phải gánh chịu. Xin đề nghị khẩu hiệu: “Bỏ điều bốn! Chôn độc tài!”

Khối 8406 chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
Làm tại Việt Nam nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền 10-12-2007
Ban Đại diện lâm thời Khối 8406 :
1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn
2- Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn (đang vận động tại hải ngoại)
3- Cựu Sĩ quan Trần Anh Kim, Thái Bình
4- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế
5- Văn sĩ Nguyễn Xuân Nghĩa, Hải Phòng.

VIET CONG: Ngồi ghế văn minh, vẫn thói man rợ !!!

Ngồi ghế văn minh,
vẫn thói man rợ !!!

Ban Biên Tập TDNL (01.12.2007 số 40) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận

Có thể nói từ cuối thế kỷ XIX trở đi, với bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền ngày 26-8-1789 của Cách mạng Pháp, nhân loại kể như đã bước lên một nấc tiến hóa mới, văn minh hơn, nhân bản hơn. Thế nhưng, với cái gọi là “Cách mạng Cộng sản” do Lénine rồi Staline chủ xướng từ năm 1917 tại Nga, biểu hiện qua những cuộc tàn sát man rợ mà nạn nhân -lên tới 20 triệu- chẳng những là người của chế độ cũ (đặc biệt cả gia đình sa hoàng Nicolas II) mà còn là lực lượng đối nghịch (phe Men-sê-vích), các nông dân không chịu vào hợp tác xã và các tôn giáo không chấp nhận vô thần (chủ yếu là Chính thống giáo); rồi qua việc xóa bỏ những di sản văn hóa trước đó (cụ thể là triệt hạ hàng trăm ngàn ngôi thánh đường, quét vôi trắng lên trên hàng ngàn bức bích họa vô giá của điện Kremlin…), với cuộc “cất mạng” ấy, nhân loại như trở về lại con đường bán khai man rợ. Đến độ Đức Piô XI, Giáo chủ Công giáo, trong Thông điệp “Đấng Cứu chuộc thần linh” (Divini Redemptoris ra ngày 19-03-1937), đã phải viết về chế độ cộng sản bôn-sê-vích vô thần như sau : “Nhiều dân tộc trọn vẹn đang có nguy cơ rơi vào lại sự man rợ còn khủng khiếp hơn này… Sự hủy diệt khủng khiếp này đã được thực hiện với một lòng căm thù, một sự man rợ, một tính tàn bạo mà người ta không tin là có thể trong thời đại chúng ta… Đó là những hoa trái của một hệ thống thiếu mọi hãm thắng bên trong. Một hãm thắng cần thiết cho con người xét cách cá nhân cũng như con người sống trong xã hội” (Số 2, 21 và 22).

Đến khi Stalin thực hiện cái gọi là "cuộc giải phóng các nước Đông Âu" sau thế chiến II, khoác lên các dân tộc này một chế độ độc tài đảng trị chưa từng thấy, thì tầm mức tàn ác còn gia tăng gấp bội, đến độ Đức Hồng y Joseph Beran (1888-1969), Tổng giám mục thủ đô Prague của Tiệp Khắc, đã phải có lần nói : "Những người cai quản chúng tôi là một lũ man rợ". Sự man rợ cộng sản đạt đến đỉnh điểm tại Trung Quốc nơi cuộc Cách mạng Văn hóa vốn khởi sự từ 1966, chính năm Liên Hiệp Quốc ban hành 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội (16-12-1966). Kéo dài đến 10 năm (1976), cuộc Cách mạng văn hóa này đã nâng tổng số nạn nhân bị chết bởi bàn tay Mao Trạch Đông lên 65 triệu người (theo Hắc thư chủ nghĩa CS), đó là chưa kể nó đã phá tan bao nhiêu kho tàng văn hóa của Trung quốc cổ mà cũng là của nhân loại, còn tạo thêm một lũ tiểu yêu Hồng vệ binh mất hết tất cả tính người.

Tại VN chúng ta, sự man rợ đã thấy ngay từ cuối thập niên 40, sau cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, khi Hồ Chí Minh tiến hành cái gọi là cuộc "cải cách nông nghiệp long trời lở đất" (từ 1949 đến 1956), giết trực tiếp lẫn gián tiếp nửa triệu người Việt. Điển hình cho sự man rợ nầy là việc Hồ Chí Minh giết chết ân nhân của đảng, bà Cát Hanh Long (1952), còn Trường Chinh Đặng Xuân Khu thì đã đấu tố cả song thân của mình (cùng năm), khiến được khắc bia miệng ngàn đời: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu”. Rồi có lẽ bắt chước "Mao Chủ tịch vĩ đại, người thầy không bao giờ sai lầm", chỉ một năm sau cuộc Cách mạng Văn hóa, Hồ Chí Minh đã tiến hành cuộc tàn sát Mậu Thân (1968) mà toàn thể dân Việt và nhân loại sắp kỷ niệm 40 năm với trái tim còn rỉ máu. Còn rỉ máu vì hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này -mãi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng CSVN. Chúng ta nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công chức, nhà giáo, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam, còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời đó.

Trong cơn kiêu ngạo chiến thắng năm 1975, tự cho mình như tạo nên một khúc quặt cho văn minh thời đại, CS đặt ra cụm từ, tung ra khái niệm “Thế giới sau Việt Nam”!?! Thế nhưng sự man rợ của CS vẫn tiếp tục hoành hành, khiến gần một phần ba trong số ba trăm ngàn “tù cải tạo chế độ cũ” chết bỏ thây trong rừng sâu, gần 2 triệu người phải bỏ nước ra ngoại quốc và từng ấy phải bỏ mạng trên biển cả khi trốn chạy chế độ, gần 3 triệu người miền Nam đang ở thành phố bị buộc phải bỏ nhà cửa -để nhường lại cho cán bộ- mà lên vùng kinh tế mới nước độc ma thiêng… chính giữa khi VN được gia nhập một tổ chức biểu tượng cho văn minh và nhân quyền là Liên Hiệp Quốc ngày 20-09-1977. Chưa đầy 2 năm sau, ngày 7-1-1979, tân thành viên này xâm lăng Campuchia, tự cho là thực hiện “nghĩa vụ quốc tế” (nghĩa vụ này có trong hiến chương LHQ không nhỉ?). Sự man rợ còn thể hiện trong cả một nền cai trị lấy lừa gạt và đàn áp làm phương sách, lấy việc tước bỏ mọi thứ nhân quyền cơ bản làm chủ trương, khiến cả 80 triệu đồng bào rên siết trong nhà tù lớn là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VN, kể cả từ khi đảng và nhà nước tỏ ra hòa mình với thế giới văn minh bằng cách thò tay ký vào hai Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nói trên ngày 24-09-1982.

Chỉ 3 năm sau động thái “văn minh hóa” này, tức lúc khởi sự cuộc đổi mới về kinh tế, CS bắt đầu cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân, cướp lương lao dân và cướp nơi thờ tự của giáo dân để gọi là “phát triển”, “xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”!! Đất nước bắt đầu làm quen với tư bản chủ nghĩa, nhưng là thứ tư bản chủ nghĩa rừng rú, chỉ có mục đích đổ đầy túi giới tư bản trắng nước ngoài và giới tư bản đỏ nội địa. Nó đã làm bùng lên nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt, như vụ nông dân đồng bằng sông Cửu Long kéo lên Sài Gòn năm 1988; dân chúng vùng Thanh Nghệ Tĩnh liên tục phản kháng những năm 90; nhân dân vùng Xuân Lộc (Đồng Nai) đứng dậy năm 1997; nông dân vùng Thọ Đà (Hà Tây), Kim Nỗ (Hà Nội) đánh nhau với công an để bảo vệ ruộng đất năm 1996 và 1998. Nhất là cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân Thái Bình diễn ra cuối năm 1996 rồi biến thành cuộc nổi dậy năm 1997, mà sau đó đã bị đàn áp một cách man rợ (CS nhờ tường phạm giết các thủ lãnh đấu tranh bị bỏ tù). Tiếp đến là cuộc nổi dậy của người Thượng Tây Nguyên năm 2001 rồi 2004 vì bị cướp hết đất đai, nguồn sống.

Giàu có lên, cán bộ đảng viên CS bắt đầu học làm sang: gởi quý tử đi du học nước ngoài, xây những biệt thự tư dinh sang trọng, sắm những vật dụng đắt tiền hay ăn xài hưởng thụ với những kiểu cách mà dân ngoại quốc cũng phải lè lưỡi. Thậm chí còn tỏ ra có tinh thần tôn giáo qua hành hương những miếu thánh đền thiêng, xì xụp cúng bái từ tư gia đến công sở... Nhưng giàu có lên đa phần đều do tham nhũng bóc lột, tiếp thu không phải tinh túy mà là cặn bã của xã hội văn minh (điển hình qua vụ Hoàng Thùy Linh và Vũ Hoàng Việt), lễ lạy cúng bái chỉ vì động cơ trục lợi: mong thăng quan tiến chức, thoát bàn tay luật pháp, khỏi dính sida lúc chơi bời… Sau khi đã bị phá hủy hay bỏ phế mấy chục năm trời, nhiều cơ sở văn hóa được tôn tạo; sau khi đã bị xem thường hay sắp sửa biến mất, nhiều loại hình văn hóa được khôi phục, nhưng với mục đích lợi nhuận là chính. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tự vỗ ngực là ưu việt nhưng chỉ thấy tính man rợ đầy tràn: thầy đánh trò, hiếp trò, khai thác trò, giao trò cho công an dân quân… trò coi thầy như kẻ bán chữ và coi trường học như chốn kinh doanh không hơn không kém…
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương Mại Toàn Cầu ngày 07-11-2006, tức là đi vào thị trường buôn bán quốc tế với những luật lệ công bằng, sòng phẳng, minh bạch, CS vẫn tiếp tục cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân và bóc lột công nhân lao động, vẫn tiếp tục cầm giữ tài sản đã “mượn” của các tôn giáo, vẫn tiếp tục đàn áp những cuộc khiếu kiện đòi trả đất và những cuộc đình công đòi tăng lương, để gọi là “tạo cho đầu tư ngoại quốc một môi trường thuận lợi”. Song song đó, CS đàn áp khốc liệt tất cả những ai bênh vực nhân dân, đòi quyền cho đồng bào và cho tôn giáo, cụ thể và nổi bật là giam giữ rồi xét xử bất công lm Nguyễn Văn Lý, ls Nguyễn Văn Đài, ls Lê Thị Công Nhân, sách nhiễu đấu tố hòa thượng Quảng Độ, thượng tọa Không Tánh, mục sư Nguyễn Hồng Quang, linh mục Phan Văn Lợi…

Sau khi trở nên Thành viên Bất Thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ hôm 16-10-2007, tức là ngồi vào giữa thế giới văn minh, đi bảo vệ an ninh toàn cầu với những tiêu chuẩn quốc tế về tự do, nhân quyền, dân chủ, CSVN lại tiếp tục trò man rợ cũ là bảo vệ an ninh nội địa bằng gia tăng sự phối hợp giữa công an và côn đồ, giữ gìn pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng cách đàn áp mọi tiếng nói đối kháng, bằng cách tổ chức các phiên tòa chính trị (đôi lúc cả các phiên tòa hình sự) theo kiểu luật rừng. Đang khi đó thì các lãnh đạo CS hứa hẹn đủ điều với quốc tế, nào là “VN sẽ quán triệt tôn chỉ, mục đích và các nguyên tắc đề ra trong Hiến chương LHQ… sẽ làm tốt trọng trách Ủy viên không thường trực HĐBA, xứng đáng với sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế”, nào là “VN không hề đàn áp những người bất đồng chính kiến, trái lại mọi công dân đều được tự do phát biểu” vân vân và vân vân. Thế nhưng, trong và ngoài phiên tòa phúc thẩm hôm 27-11 mới rồi, xử 2 luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân, với những trò áp dụng khoản luật vi hiến (điều 88 Bộ luật hình sự), cãi chày cối hay ngậm hột thị, cướp thời gian của luật sư, vu khống các bị cáo, chọn lọc thành phần cử tọa…, với những trò ngăn chận thân nhân kẻ bị xử, bắt biệt tích các nhân chứng, chặn đường hay hành hung những người ủng hộ… làm một cách ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật, trước đôi mắt của nhân dân và quốc tế… Mới đây nhất là vụ giam giữ những nhà hoạt động dân chủ bất bạo động từ nước ngoài về, còn vu khống họ là khủng bố qua việc nhét súng vào hành lý của một Việt kiều thăm quê… Tất cả một lần nữa cho thấy dù đã ngồi vào ghế văn minh, CSVN vẫn cứ thói man rợ. Thật ra, qua cả một lịch sử dài của các đảng và các chế độ CS, CS đâu có gì là văn hóa, đâu có gì là văn minh, đâu có gì là quân tử !!!