Thứ Hai, 8 tháng 12, 2008
Viet Cong nam vung gia vo dau da, boi nho lan nhau ma ta van tuong la: PHE TA DANH PHE TA
Đinh Lâm Thanh
Ba triệu người Việt Tự Do định cư tại nước ngoài chỉ là một số nhỏ so với trên tám chục triệu trong nước, nhưng chính là mối lo sợ hàng đầu đối với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Đây là một cộng đồng đầy đủ thực lực, từ nguồn chất xám, tinh thần đoàn kết, khả năng tài chánh đến vai trò chính trị...
Ngoại trừ tại Hoa kỳ, còn lại một số nhỏ định cư rải rác khắp toàn thế giới, nhưng cộng đồng người Việt chẳng những đã thu hút được cảm tình người bản xứ mà còn thay đổi được lối nhìn, quan niệm và thái độ của thế giới tự do đối với những người đã bỏ xứ ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tinh thần đoàn kết dưới màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ dù ở bất cứ nơi nào, người Việt Tự Do cũng đã giúp người dân bản xứ nhận ra sự hiểu biết thô sơ, lệch lạc cũng như những sai lầm của họ trước kia về chế độ Cộng sản Việt Nam.
Ngoài ra cần phải nói thêm, các nỗ lực và thành quả tốt đẹp của người Việt trong việc hội nhập vào xã hội mới cũng như tinh thần chống Cộng triệt để đã vô hiệu hóa tất cả những lời tuyên truyền, bịp bợm, láo khoét của các cơ quan ngoại giao Cộng sản từ trong nước cũng như ở hải ngoại. Khi vừa chiếm đoạt Miền Nam, Hà Nội đã vội vàng cướp tài sản, bỏ tù, đày đi kinh tế và xua ra đại dương những người mà Cộng sản cho là biếng nhác, ăn hại, phản động, tay sai, đánh thuê và là mầm mống nguy hiểm cho chế độ.
Nhưng chỉ một thời gian sau, chính Hà Nội lại âu yếm gọi bằng "khúc ruột ngàn dặm" và trân trọng trải thảm đỏ, mời những người bị chúng đã xua ra biển nên quên hận thù, quay về đùm bọc lấy anh em ruột thịtxây dựng lại quê hương! Vừa van lạy xin "tiền khúc ruột ngàn dặm", vừa lo sợ trước tinh thần đoàn kết cũng như những thành công về kinh tế và chính trị của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Trên bình diện quốc tế, tập đoàn Cộng sản đã thua hẳn cộng đông người Việt tự do tại hải ngoại về mọi phương diện.
Muốn đánh bại cộng đồng, con đường tốt nhất là phải phá thối và gây chia rẽ nội bộ... Do đó, để phá hoại cộng đồng, Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu và dành một ngân khoảng lớn để huấn luyện, tổ chức và tưởng thưởng cho điệp viên, cán bộ nằm vùng và những ai đã lỡ "dính chàm" phải cúi đầu chờ lệnh.
Chỉ có hai sức mạnh khả dĩ đánh đổ được tập đoàn bạo quyền Hà Nội mà thôi, đó là tinh thần Đoàn Kết và Ngoại Tệ của cộng đồng người Việt hải ngoại mà tinh thần đoàn kết của người Việt hải ngoại mới đích thực là mối lo trầm trọng của tập đoàn Cộng sản Việt Nam. Do đó, chúng ta không lạ gì khi Cộng sản Việt Nam chi ra nửa tỷ dollars cho âm mưu kiều vận và phá hoại qua nghị quyết 36.
Nghị quyết này gồm nhiều tiết mục nhưng chung quy có thể thu gọn trong 3 phần với 3 mục đích chính: Lường gạt, tuyên truyền và phá hoại!
- Lường gạt :
Kêu gọi chất xám và tiền của người Việt nước ngoài. Đây là phần nổi của nghị quyết. Làm một công hai việc, vừa đánh bóng chế độ trong tinh thần hoà giải hòa hợp dân tộc và kêu gọi khúc ruột ngàn dặm đem hết khả năng và của cải về phục vụ đất nước. Nhưng thực chất là một sự lường gạt trắng trợn những người dễ tin để đem chất xám về phục vụ củng cố một tập đoàn thối nát, bất tài và tham nhũng, đồng thời khai thác tình thâm ruột thịt, liên hệ gia đình của những "con gà để trứng vàng" trong nước hầu móc túi thân nhân nước ngoài.
- Tuyên truyền:
Lợi dụng truyền thông, văn hóa để len lỏi vào Cộng đồng bằng cách ru ngủ, mua chuộc, lôi kéo từ người lớn xuống trẻ em dưới nhiều hình thức, từ sách báo, ca nhạc, cải lương đến các hoạt động xã hội, tôn giáo và nhất là chú trọng vào chương trình dạy tiếng Việt cho trẻ nhỏ.
Các tòa đại sứ Cộng sản được cấp những ngân sách khổng lồ để thi hành nghị quyết bằng cách tổ chức những đội ngũ cán bộ, mục đích len lỏi vào các cơ sở của người nước ngoài như báo chí, truyền thanh truyền hình, lập ra nhiều trang báo điện tử, diễn đàn hoặc dùng tiền mua chuộc từ cá nhận đến tập thể trong các tổ chức này. Đây là phần chìm mà các cơ quan ngoại giao tại hải ngoại phải thi hành theo lệnh của bộ chính trị của đảng. Nhưng trong năm qua Cộng sản Việt Nam đã thất bại, các cơ quan ngoại giao nước ngoài không đạt chỉ tiêu cho năm 2006 trong chương trình xâm nhập vào toàn bộ các hiệp hội, đoàn thể, đảng phái của người Việt hải ngoại.
Quan trọng nhất là cuối năm 2006 chúng đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu dùng tiền mua chuộc hoặc thay thế các chức vụ chủ tịch của cộng đồng bằng các cán bộ nằm vùng hay những tên cò mồi dễ dạy.
- Phá hoại :
Len lỏi vào cộng đồng, đảng phái, đoàn thể để tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ, phá rối Cộng đồng người Việt hải ngoại... đồng thời huấn luyện, nuôi dưỡng đám "chó săn" để chúng theo dõi, bôi xấu, hù dọa, chụp mũ những ai có hành động gây phương hại cho chế độ Cộng sản. Đây mới là chính phần trọng tâm của nghị quyết 36!Phần nổi và phần chìm chúng tôi đã có dịp trình bày trong những bài trước, trong phạm vi lần này xin đề cập đến một đòn ma giáo thuộc phần trọng tâm của nghị quyết 36, là chụp những chiếc mũ Cộng sản cho những ai mà Hà Nội xem là thành phần cực kỳ phản động ở nước ngoài.Chụp mũ hay đội nón cối lên đầu những người quốc gia có tinh thần chống Cộng kiên trì, đối với Cộng sản là thượng sách, vừa ít tốn tiền nhưng lại tạo được nhiều kết quả thật quan trọng. Bất cứ ai có tên trong sổ đỏ thuộc thành phần "cực kỳ phản động" ở hải ngoại mà Cộng sản Việt Nam không thể mua chuộc, hù dọa hay bắt bớ được thì cứ việc ra lệnh cho đàn em đội ngay lên đầu họ một vài chiếc nón cối thật lớn là xong chuyện!
Vì Cộng sản biết rằng, cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại chẳng những căm thù người Cộng sản chính hiệu mà còn xa lánh, tẩy chay những tên tay sai ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản như trường hợp Trần Trường ở Cali cách đây vài năm. Cứ việc đội lên đầu người nào một vài cái nón cối thì trước sau gì danh dự của nạn nhân cũng bị tổn thương không nhiều thì ít. Đúng vậy, một khi dùng nón cối quật ngã được người nào thì xem như Cộng sản đã thắng một trận đánh lớn mà không mất một viên đạn.
Điều tệ hại quan trọng nhất là một số ít người trong cộng đồng thiếu suy tư phán đoán, thiếu tìm hiểu nạn nhân để chận đứng và vạch trần âm mưu của Cộng sản, do đó họ đã vô tình nối giáo cho giặc bằng sự im lặng của mình. Nói chống Cộng, ngồi lại với nhau thì hùng hổ nói thật hay, nhưng khi có việc thì rút vào bóng tối...
Chỉ một việc nhỏ như đi biểu tình chống Cộng trước tòa đại sứ Việt Cộng hằng năm vào ngày 30.4 thì thật đáng buồn khi so sánh số người tham dự với khách trong các buổi tiệc liên hoan, kỷ niệm của các hội đoàn chống Cộng!
Người chống Cộng nhiệt tình, công khai ra mặt thường bị cô đơn, vì bà con giòng họ, bạn bè, đồng hương, đồng chí trong các tổ chức lúc nào cũng tìm cách né tránh. Chuyện cũng thật dễ hiểu, vì những người này thường về Việt Nam du hí, thăm bà con, làm ăn... dĩ nhiên phập phồng lo sợ nhà nước Việt Nam sẽ làm khó dễ, gây trở ngại khó khăn khi Hà Nội khám phá ra họ có liên hệ giây dưa với những "tên phản động".
Dựa vào thế mặc cảm sợ sệt của những người này đó, Cộng sản cứ đà tiến tới chụp mũ người này đến người kia. Do đó, vừa mấy năm trở lại đây, trò chụp mũ phát triển thật nhanh. Thử nghĩ lại xem, đã có biết bao nhiêu người yêu nước nhiệt tình, xả thân cho đại cuộc đã nhụt chí rút vào bóng tối vì những chiếc nón cối trên đầu!
Thành phần chuyên nghiệp hành nghề chụp mũ là những ai?
Có thể là một trong ba hạng người sau đây: Cán bộ điệp viên đội lốt người tỵ nạn. Người nhẹ dạ đã-đang-sẽ hưởng bổng lộc của Cộng sản Việt Nam. Người bị "dính chàm" của Cộng sản vì một vấn đế nào đó và một khi vết "chàm" của Cộng sản đã dính lên người thì không bao giờ gội rửa được!
Cái bẫy giăng ra thật đơn giản là khi ban ân huê cho một cá nhân nào, Cộng sản chỉ cần ghi lại tất cả dấu vết để sau đó áp lực nạn nhân phải thi hành những yêu cầu của chúng. Nhiều trường hợp đi tù, một vài cá nhân nào đó đã bán đứng đồng đội mục đích kiếm điểm với kẻ thù, để được làm "cai tù" ăn trên ngồi trước, để chạy tội hay hy vọng rút ngắn thời gian cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình... Lúc cần thì Cộng sản xử dụng những bút tích đó để hù dọa, bắt chẹt và ép buộc phải tìm cách đội lên đầu cái nón cối cho những ai mà Cộng sản cần phải thanh toán! ...
Đó là trò đểu của Hà Nội đang mang ra áp dụng tại hải ngoại để tách rời những người chống Cộng ra khỏi cộng đồng người Việt. Các điệp viên núp bóng người tỵ nạn thường xử dụng nhiều tên ảo, dùng những lời chửi bới hạ cấp, thô tục trên các diễn đàn, gởi thư qua các hộp thư điện tử và dùng điện thoại cộng cộng để chửi bới hăm dọa. Phương thức này chưa được hoàn hảo, vì những lời hăm dọa chửi bới dưới tên ảo không gây xáo trộn cộng đồng bằng những pháp nhân có thật, nhưng những người này thì không trực diện nói chuyện với nạn nhân mà chỉ dùng lối rỉ tai người này người khác.
Trường hợp này mới nguy hiểm vì cộng sản đã thành công trong việc gây xao trộn cộng đồng, tạo chia rẽ giữa người này người kia... Nhân cách của những kẻ thường dùng kỹ thuật rỉ tai đã là xấu vì nói lén sau lưng người khác, người "bị" nghe thường không chú ý, nhưng nghe mãi nghe hoài cũng thấm vào đầu óc họ.
Đó là chiến thuật tuyên truyền của Cộng sản, cứ nói mãi, thế nào cũng còn lưu lại trong đầu người nghe không nhiều thì ít! Những người đội tên giả chửi bới vô liêm sĩ thật ra không nguy hiểm bằng hạng người rỉ tai người này người kia thì chúng ta cần phải cảnh giác.
Kết quả Cộng sản đã thắng bằng lối tuyên truyền cố hữu, chỉ một viên đạn bắn ra đã sát hại nguyên cả đàn chim.Một ít người ít hiểu biết, ích kỷ, ham danh... muốn trở thành lãnh tụ bằng con đường tắt với vài ba đàn em dưới trướng, khua chuông đánh trống, đấm đá lung tung để tìm cách vương lên bằng những trò hề rẻ tiền, tranh dành chức vụ rồi bôi xấu, chụp mũ...
Người chống Cộng nhiệt tình, công khai ra mặt thường bị cô đơn, vì bà con giòng họ, bạn bè, đồng hương, đồng chí trong các tổ chức lúc nào cũng tìm cách né tránh. Chuyện cũng thật dễ hiểu, vì những người này thường về Việt Nam du hí, thăm bà con, làm ăn... dĩ nhiên phập phồng lo sợ nhà nước Việt Nam sẽ làm khó dễ, gây trở ngại khó khăn khi Hà Nội khám phá ra họ có liên hệ giây dưa với những "tên phản động". Dựa vào thế mặc cảm sợ sệt của những người này đó, Cộng sản cứ đà tiến tới chụp mũ người này đến người kia. Do đó, vừa mấy năm trở lại đây, trò chụp mũ phát triển thật nhanh. Thử nghĩ lại xem, đã có biết bao nhiêu người yêu nước nhiệt tình, xả thân cho đại cuộc đã nhụt chí rút vào bóng tối vì những chiếc nón cối trên đầu!
Các điệp viên núp bóng người tỵ nạn thường xử dụng nhiều tên ảo, dùng những lời chửi bới hạ cấp, thô tục trên các diễn đàn, gởi thư qua các hộp thư điện tử và dùng điện thoại cộng cộng để chửi bới hăm dọa. Phương thức này chưa được hoàn hảo, vì những lời hăm dọa chửi bới dưới tên ảo không gây xáo trộn cộng đồng bằng những pháp nhân có thật, nhưng những người này thì không trực diện nói chuyện với nạn nhân mà chỉ dùng lối rỉ tai người này người khác.
Hành động của thành phần này đã tạo ra những môi trường thuận lợi cho kế hoạch phá hoại của nghị quyết 36. Để kết nạp thành phần này, địch có thể cung cấp nhân lực cũng như tài chánh mục đích tạo ra thật nhiều hiệp hội, nhiều đoàn thể, đảng phái nhằm chia xẻ tinh thần đoàn kết của cộng đồng.
Vô tình thành phần này trở thành công cụ không công cho địch, rồi một lúc nào đó, với một ân huệ hay hứa hẹn nào đó, những người này trở thành những tay đắc lực phụ vụ cho quyền lợi của đảng Cộng sản Việt Nam.
Chụp mũ là thủ đoạn của Cộng sản, hành động này là nghề nghiệp của các điệp viên, những tên cán bộ công an núp bóng trong hàng ngũ tỵ nạn.
Những người quốc gia chân chính, đừng vì ganh ghét cá nhân, đừng vì một chút lợi lộc tiền bạc hay những lời hứa hẹn của địch mà nhắm mắt làm theo lệnh quan thầy, đánh lung tung người này đến người khác. Một khi Hà Nội chỉ thị phải đánh một người nào thì phải nghĩ rằng người đó là cái gai trước mặt mà chúng cần phải nhổ bỏ, nếu đánh gục họ thì xem như một người quốc gia đã dùng vũ khí Cộng sản đánh thẳng vào cộng đồng người Việt Tự Do ở hải ngoại.
Việc vạch mặt chỉ tên những tên Cộng sản nằm vùng phá hoại cộng đồng là một việc phải làm của tất cả mọi người, nhất trong giai đoạn này để loại ra khỏi cộng đồng những phần tử đang ráo riết gây rối và phá hoại cộng đồng trong nhiều lãnh vực. Nhưng tuyệt đối đừng nghe lời của những người có thành tích bất hảo, miệng chống Cộng vung vít nhưng đàng sau chúng đưa tay nhận tiền bạc lợi lộc của kẻ thù để đội lên đầu những người chống Cộng chân chính và nhiệt huyết những cái nón cối.
Cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thật chính xác về đời tư, quá trình hoạt động của hai đối tượng, người hành nghề chụp mũ cũng như nạn nhân để tránh việc xét đoán lầm người.
Chỉ một hành động chuyền miệng rỉ tai bôi xấu một người nào đã là hành động của kẻ tiểu nhân, chưa kể đến những chuyện bày đặt buồn cười vô căn cứ thì chúng ta nên xét lại và ngăn chận kịp thời, tránh chuyện "tam sao thất bổn" nhỏ biến thành lớn, chuyện ruồi bu thành vấn đề quan trọng.
Không có chuyện gì có thể bưng bít lâu dài, không nhanh thì chậm, tất cả sự thật sẽ được phơi bày dưới ánh mặt trời, chừng đó người đời sẽ phê phán hành động của những người hành nghề chụp mũ và con cái cháu chắc sẽ tủi nhục vì những hành động của cha ông mình. Nhưng hiện tại nếu không mau trừ khử những người hành nghề chụp mũ kịp thời thì trong giai đoạn quyết liệt này cộng đồng chúng ta sẽ thiếu hoặc mất đi những người tiên phong chống Cộng.",[1]
Một ít người ít hiểu biết, ích kỷ, ham danh... muốn trở thành lãnh tụ bằng con đường tắt với vài ba đàn em dưới trướng, khua chuông đánh trống, đấm đá lung tung để tìm cách vương lên bằng những trò hề rẻ tiền, tranh dành chức vụ rồi bôi xấu, chụp mũ...
Chụp mũ là công việc của bọn công an, điệp viên nằm vùng, nếu là người quốc gia, những ai đã bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận chế độ Cộng sản thì xin hãy dừng tay, đừng vì cá nhân, tiền bạc, phe nhóm mà nhắm mắt chụp mũ những người đang tranh đấu nhiệt tình trong lòng cộng đồng người Việt. Một điều khẳng định rằng, một khi Cộng sản ra lệnh chụp mũ một người nào thì chắc chắn rằng Hà Nội muốn bịt miệng và tách rời người đó ra khỏi cộng đồng bằng trò chia rẻ.
Cũng xin nhắc nhở những người đang hành nghề chụp mũ, không phải ai cũng sợ chiếc nón cối, mà một số người chống cộng nhiệt tình, có lý tưởng từ trong máu huyết mà họ đã chứng minh bằng những hành động bất vụ lợi từ lúc cắp sách đến trường cho đến ngày nay thì không bao giờ cái nón cối đánh gục được họ. Đối với những người này, càng bị chụp mũ, họ càng đứng dậy, hiên ngang tiếp tục con đường tranh đấu cho đến ngày nhắm mắt.
Mong rằng những người trong hàng ngũ quốc gia thường xử dụng đòn chụp mũ hãy lấy lương tâm tìm hiểu nạn nhân. Thật tình mà nói, những người chống Cộng thật cô đơn, chính vợ con họ phản đối vì đã gây cho gia đình biết bao lo lắng buồn phiền mà còn bị những người thường về Việt Nam như bà con, thân nhân, bạn bè cũng như đồng hương, đồng chí... tránh né vì sợ Cộng sản khám phá ra có liên hệ thân thiết với những tên "cực kỳ phản động"ở nước ngoài!
Tóm lại, người trí thức quân tử dám nói dám làm, tôn trọng sự thật và sẵn sàng chấp nhận sai lầm của mình... Tiểu nhân, ngửa tay nhận ân huệ tiền bạc của bất cứ ai để thi hành bất cứ tội ác nào được giao phó từ ném đá giấu tay, mang tên ảo, rỉ tai, bôi xấu đến chụp mũ những người bị đối phương xếp vào loại "phản động". Thế thì nuôi dưỡng bao che cho tiểu nhân làm gì để chúng tiếp tay Hà Nội, bôi nhọ những phần tử Quốc gia... để rồi cộng đồng sẽ thiếu nhiều chiến sĩ tiền phong trong hàng ngũ chống Cộng sản. Nếu còn chút lương tri, xin hãy nghĩ lại xem...
(Trích: Tiengnoigiaodan.neT
Thứ Hai, 17 tháng 11, 2008
Nhà văn CS minh họa thói nói dối trong giới quan chức
NHẬN DIỆN BẢN CHẤT DỐI TRÁ CỦA CSVN
Lê Thiên
Vụ đất đai Tòa Khâm sứ ở Hà Nội và khu vực Giáo xứ Thái Hà của Dòng Chúa Cứu Thế cũng ở Hà Nội đã sôi sục trong nhiều tháng qua. Một bên nêu bằng cớ về chủ quyền của tài sản và giáo dân tập họp cầu nguyện trên khu vực tài sản của Giáo Hội mình, một bên là các quan chức chính quyền vẫn lập trường đảng ta “trước sau như một” được phương tiện truyền thông chính quy hà hơi tiếp sức, tranh đoạt bằng lý lẽ của kẻ mạnh! Thay vì chân thành “đối thoại” với nhau, kẻ cai trị dùng mưu ma chước quỷ tạo nên một cuộc “đối chọi” hầu có cớ chụp mũ, quy lỗi, kết tội kẻ bị trị. Và cuối cùng “la raison du plus fort est toujours la meilleure – Lý của kẻ mạnh luôn luôn thắng thế”.
Chưa hết! Ngày 23/9/2008 Ủy ban Nhân dân thành phố còn gửi văn thư số 1437/UBND-NC cho Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) yêu cầu “xem xét, xử lý và đề nghị xử lý nghiêm minh theo qui định của Giáo hội đối với Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, linh mục Vũ Khởi Phụng, các giáo sĩ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Ngọc Nam Phong.”
- Ngày 25/9/2008, HĐGMVN gửi thư phản bác văn thư trên với câu trả lời lịch sự ngắn gọn: “HĐGMVN thấy các vị này không có làm gì ngược lại Giáo luật hiện hành của Giáo hội Công Giáo.”
- HĐGMVN đã tế nhị không đả động gì đến thái độ trịch thượng ngu xuẩn của quan chức ký văn thư trong kiểu cách nhảy xổm vào nội bộ của tôn giáo kiểu đảng ủy ra lệnh cho chính quyền.
Nhưng người dân thì ngẫm nghĩ cười thầm trước thái độ hống hách của mấy ông quan Cộng sản Hà Nội khi nhớ lại lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Khải: “Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất.” Rồi ông nhà văn đã phải tự khai rằng: “Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xã hội chủ nghĩa.”
Thiết tưởng, văn thư số 1437/UBND-NC của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đủ bộc lộ tư cách, phẩm chất và giá trị con người đã đẻ ra nó, chẳng cần phải bàn cãi gì thêm.
Điều đáng ghi nhận là cùng với thư trả lời cho cái văn thư quái đản số 1437/UBND-NC kia, HĐGMVN còn công bố một văn bản bày tỏ “Quan điểm của Hội Đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay.”
Trong bản quan điểm này HĐGMVN nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến “tình hình khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thỏa đáng” mà “nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại thêm.” Bên cạnh đó “một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ” cũng như “một số người có khuynh hướng sử dụng bạo lực, và như thế, tạo thêm bất công trong xã hội.”
Có lẽ chẳng phải đến bây giờ HĐGMVN mới nhận ra các điều trên đây. Nhưng đây dường như là lần đầu tiên, bằng văn thư chính thức, HĐGMVN nói thẳng với nhà cầm quyền và toàn dân Việt Nam quan điểm của mình về “những điều nhức nhối trong lương tâm” không thể không nói ra.
HĐGMVN đưa ra lời cảnh báo: “Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến tình trạng này”
Bản chất dối trá của Cộng sản
Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, đã từng lên tiếng công khai: “Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản; nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo.” Phải chăng đó là lời cảnh giác về căn tính gian manh cố hữu của Cộng sản?
Đức Cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận kể một mẫu chuyện dí dỏm về chính ngài và Đức Hồng y Trịnh Văn Căn vào thời gian ngài còn là Tổng Giám mục tù nhân CS bị quản thúc tại Hà Nội như sau:
Có một lần Đức Hồng y Trịnh Văn Căn gặp riêng Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận. ĐHY Căn hỏi thăm về cuộc sống cùa Đức Tổng Thuận trong thời gian mất tự do. Sau khi nghe Đức Tổng Giám mục Thuận thuật lại cuộc sống trong tù của mình, ĐHY Trịnh Văn Căn tấm tắc khen và tò mò hỏi:
- Như vậy ở trong đó, Đức Tổng chắc khỏi phải sợ phạm tội gì cả.
Đức Tổng Thuận trả lời:
- Dạ thưa Đức Hồng Y, cũng có phạm tội chứ! Chẳng hạn mình đang mệt mà cán bộ hỏi thì mình cũng phải nói khỏe. Mình đang đói mà cán bộ hỏi, lại phải nói no, hay đang buồn cũng trả lời vui… Chỉ có tội nói không thật là hay phạm thôi.
Đức Hồng Y Căn khoát tay và nói:
- Chúng ta đều phạm tội như nhau.
Quả vậy, sống trong đất nước xã hội chủ nghĩa, mọi người – kể cả người ở trong tù lẫn ở ngoài nhà tù - đều bị bắt buộc phải NÓI DỐI, bất luận anh là ai, là giới chức nào, thuộc thành phần nào! Nói dối vì bị ép phải nói dối như bị ép cung. Ai đã sống ít nhiều thời gian dưới chế độ Cộng sản cũng đều có kinh nghiệm bi-hài này.
Như vậy lời cảnh báo của HĐGMVN là đúng đắn.
Qua các diễn biến khiếu kiện gần đây của người dân cũng như của tôn giáo, các cách đối phó lưu manh tráo trở, lật lọng, vu khống trắng trợn của các cơ quan chính quyền Cộng sản càng ngày càng lộ rõ.
Cộng sản = Lưu manh, gian dối
Thật ra, tại Việt Nam chẳng phải đến bây giờ người dân mới nhận rõ bản chất lưu manh của Cộng sản Việt Nam.
Từ hơn 60 năm về trước, nhiều văn nhân trí thức ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa cũng đã từng lên tiếng báo động về căn tính dối trá của Cộng sản. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức từ Pháp trở về Bắc đầu phục chính quyền Cộng sản Việt Nam vào đầu thập niên 50, đến năm 1956 thì bị nhà nước CS miền Bắc đày đọa chỉ vì dám lên tiếng góp ý thẳng thắn về những sai sót trong cơ chế xã hội thời đó.
Về cuối đời của mình, Ls Nguyễn Mạnh Tường đã phải kêu lên: "Cộng sản sống bằng sự dối trá, giả hình, nhưng cái sai lầm của nó là đặt sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ý mình và dùng để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù" (Kẻ bị khai trừ, trang 147). Luật sư Tường kết luận: "Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của họ [= Cộng sản] chưa hề thấy trong lịch sử loài người" (sđd như trên).
Ông Tường vạch rõ: "Thế giới Việt Nam là thế giới đóng cửa, cũng như toàn thể cái thế giới cộng sản vậy. Ở bên trong người ta tự cho phép làm những việc không thể tưởng tượng được, bách hại dã man, điên rồ bỉ ổi. Không ai dám nhìn vào bên trong cái hỏa ngục, trong đó diễn ra những tội ác chỉ có trong thời kỳ thế mạt, làm mất hết nhân phẩm, nhân tính" (trang 134).
Bưng bít, che đậy và sự dối trá của Cộng sản còn được một cựu cán bộ kháng chiến - nhà văn Xuân Vũ [2] - xác định trong cuốn Đồng Bằng Gai Góc của ông:
"Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ làm là làm bậy" (sđd, trang 335). Và ông thẳng thắn tố giác:
"Bàn tay ác hại của đảng mó tới đâu, máu đổ tới đó" (sđd trang 76).
Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu có thể sai nhiều điều, nhưng chắc chắn ông luôn luôn đúng khi căn dặn mọi người: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm.”
Ông Phạm quế Dương, cựu Đại tá cộng sản, cựu Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu lịch sử Quân đội Nhân dân cũng nói: “Cộng sản vừa bất tài, vừa bất lực và vừa bất lương.”
Trả lời cuộc phỏng vấn của Thanh Niên ngày 20/5/2006, Phó chủ nhiệm Văn phòng QH/CSVN Trần Quốc Thuận phát biểu: "Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Không tham nhũng mới là lạ! Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Mọi người nhận lương đó, nhưng mà có ai sống bằng lương đâu! Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lặp lại nhiều lần thành 'đạo đức', mà cái 'đạo đức' đó là rất mất đạo đức. Đấy là một cái nguy, nhưng tôi thấy ít người quan tâm, chỉ chăm chăm vào vụ tham nhũng này, vụ tham nhũng kia" [3]. (Bài phỏng vấn có nhan đề “Cơ chế này sinh ra nói dối hằng ngày").
Cái 'đạo đức' rất mất đạo đức phát sinh từ cái thói “có nói không, không nói có” , nó lưu thông trong huyết quản của hầu hết quan chức Cộng sản, kể cả lãnh tụ “thần thánh” họ Hồ của họ.
Xin đan cử một trong rất nhiều bằng chứng mà sách báo đã vạch ra về biệt tài nói dối của ông Hồ.
Biệt tài nói dối của Hồ lãnh tụ
Chúng tôi muốn đề cập đến quyển "Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch" xuất hiện từ mùa xuân năm 1948. Cuốn sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên. Thế nhưng, theo Phương Nam Đỗ Nam Hải [4], vào năm 1985, giáo sư Hà Minh Ðức đã xuất bản cuốn “Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh” trong đó có đoạn: ‘‘…Ðáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch…’’ . (Hà Minh Ðức, sách đã dẫn, Tr 132, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985). Thì ra, Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh.
Tác giả viết tự truyện và chọn một bút hiệu, điều đó chẳng có gì là sai trái. Nhưng khi Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Dân Tiên để viết sách tự đề cao mình, tự ca tụng mình thì thật là một trò lưu manh giảo hoạt khó mà chấp nhận. Chẳng hạn, những câu sau đây: ‘‘…Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho ai nghe về hoạt động của mình". "Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc". "Bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa…’’ !
Tự đưa mình lên đỉnh trời cao, tự thần hóa mình thì đó là tự cao tự đại hay là khiêm nhường? ‘‘…Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tinh khiêm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được?…’’
Chữ N (Người) bằng chữ hoa ! Thần thánh đấy!
Quyển sách mang tên tác giả Trần Dân Tiên ấy xuất hiện từ năm 1947! Có nghĩa là từ thời đó Hồ Chí Minh đã tự tôn mình làm “cha già dân tộc” trước khi bắt dân chúng suy tôn mình. Hồ Chí Minh huênh hoang tự cho mình “vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo” chứ có người dân nào tung hô ông như thế đâu! Tất nhiên trừ đám bộ hạ của ông ra.
Chủ tịch nước nói dối
Ngày 06/07/2007, báo Tuổi Trẻ cho rằng “chuyến thăm chính thức Hợp chủng quốc Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, từ ngày 18 đến 23-6, được sự quan tâm, chú ý đặc biệt của giới truyền thông Hoa Kỳ. Tuổi Trẻ trích giới thiệu cuộc trả lời phỏng vấn của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết với Hãng truyền hình CNN vừa được phát trên báo Nhân Dân điện tử ngày 4-7.” Trong bài phỏng vấn ấy, CNN nêu câu hỏi về vụ bắt bớ, bỏ tù Linh mục Nguyễn Văn Lý, ông Nguyễn Minh Triết trả lời: “Ông ta [lm Nguyễn Văn Lý] vi phạm pháp luật VN. Đây hoàn toàn là vấn đề pháp luật, không phải là vấn đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được Hội đồng giám mục VN và Tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi.”
Rồi khi đàm đạo với bà Nancy Pelosi, Chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ, ông Triết lại lặp lại: “Nếu như bà nói rằng chúng tôi vi phạm tôn giáo thì trong sự kiện này, người đáng lẽ phải lên tiếng mạnh mẽ nhất phải là Hội đồng giám mục ở VN. Nhưng trong vụ xử công dân Nguyễn Văn Lý thì Hội đồng giám mục VN lại hết sức đồng tình, ủng hộ.
Các vị có thể nghi ngờ Hội đồng linh mục không dám lên tiếng nhưng chính Tòa thánh Vatican, nơi quản lý, bảo vệ quyền lợi cho các linh mục trên toàn thế giới, trong trường hợp này cũng đồng tình ủng hộ Chính phủ VN. ”
Ngay hôm sau, ngày 07/7/2007, HĐGMVN lập tức gửi thư minh xác về lời tuyên bố của Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết như sau: “Câu trả lời của Cụ Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết ‘Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi’ là không đúng sự thật.”
Sau đó chẳng hề thấy phía nhà cầm quyền VN “phản hồi” thư minh xác của HĐGMVN. “Không đúng sự thật” là gì nếu không phải là nói dối? Chủ tịch một nước mà lại đi nói dối trắng trợn trước một cơ quan truyền thông quốc tế (CNN) và với một giới chức chính trị cao cấp của nước Mỹ, thì nhục hay vinh? Đáng tự hào hay đáng hổ thẹn?
Thảo nào trong chế độ Cộng sản ở Việt Nam, dối trá chồng chất dối trá, lưu manh tiếp nối lưu manh, từ thế hệ này sang thế hệ khác! Trong mọi lãnh vực, mọi cơ cấu đảng và nhà nước cộng sản!
Phát huy cơ chế nói dối
Các quan chức Cộng sản biện luận rằng, trên thế giới ở đâu lại chẳng có người nói dối, cấp lãnh đạo các nhà nước gọi là dân chủ Âu Mỹ không nói dối sao? Vâng, những người làm chính trị và nhất là những kẻ nắm quyền trị nước là những người nói dối và cố tình che đậy sự thật nhiều nhất. Nhưng trong các nước dân chủ Âu Mỹ, sự thật càng che đậy, truyền thông càng soi mói lôi hết ra ánh sáng cho công luận phán xét. Ông George Bush Cha chỉ làm Tổng thống được một nhiệm kỳ 4 năm rồi bị dân Mỹ cho về vườn chỉ vì đã nói nhiều điều không thật mà còn lên gân bảo người ta hãy “đọc trên môi tôi đây” . Ông Clinton đã từng giấu giếm chuyện ông dan díu với cô sinh viên tập sự Monica Lewinski, lại còn cả quyết mình “không bao giờ, không bao giờ…” khiến truyền thông Mỹ đánh ông tơi bời, lôi chuyện ông làm tình với cô hay bắt bồ với cô khác mà bêu rếu. Hai câu nói của hai ông cựu Tổng thống truyền thông Mỹ không ngừng đem ra chế giễu mỗi khi có dịp.
Còn tại nước Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo cứ nói dối, truyền thông Nhà Nước (trong nước cho có mỗi một thứ truyền thông này mà thôi) cứ che đậy những mưu đồ đằng sau sự dối trá, cứ thổi phồng tài năng, đức độ và thành tích siêu quần bạt chúng của lãnh đạo, thì làm sao lãnh đạo các cấp không say ngủ trong “thắng lợi vẻ vang” mà tiếp tục gia tăng lừa dối cùng dùng mọi thủ đoạn lưu manh hèn hạ để khủng bố bịt miệng những ai cả gan dám nói lên sự thật đụng chạm tới bản thân họ, tức cũng có nghĩa là phạm tội chống đảng, tội phản động.
Toàn bộ truyền thông (báo in, truyền hình, truyền thanh) trong nước đều là TRUYỀN THÔNG NHÀ NƯỚC, là sản phẩm độc quyền của Đảng và nhà nước (vì cấm báo tư nhân). Nó có nhiệm vụ làm nên những cái LOA của lãnh đạo và của chủ nghĩa chuyên chính, thì sự dối trá đương nhiên tha hồ tung hoành và bành trướng. Cơ chế nói dối lên ngôi độc quyền, từ đó sản sinh ra thứ văn hóa bịt miệng, biểu tượng của tính đảng và cốt lõi của nền văn hóa đảng trị!
Việc cắt xén hay chế biến câu nói của người khác chính là một trong những biểu thị của cơ chế nói dối và của nền văn hóa đảng trị - một thủ thuật gian trá phá đám được khai thác tối đa nhằm khuếch đại hận thù, đố kỵ và hạ nhục hầu gây phân hóa, chia rẽ giữa người dân với nhau để củng cố và đẩy mạnh nền cai trị độc đảng, độc tài và độc đoán lên đỉnh cao chót vót của quyền lực vậy.
Việc một câu nói của Đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt trong bài phát biểu của ngài trước một cuộc họp tại văn phòng UBND TP Hà Nội bị cả chính quyền thành phố Hà Nội lẫn các bộ phận truyền thông quốc doanh độc thoại đồng loạt cắt xén, chỉ đăng tải một phân đoạn giáo đầu, rồi diễn giải một cách sai lạc để chụp mũ, kết tội và nhất là để triệt hạ uy tín của thẩm quyền tôn giáo, đó là bằng chứng cụ thể hiển nhiên cho thấy sự lộng hành của cơ chế nói dối và nền văn hóa đảng trị ấy. Một hành vi hạ cấp đê tiện bộc lộ trọn vẹn sự bất lương trắng trợn và trơ trẽn chưa từng thấy! Miễn sao kẻ cầm quyền được thỏa mãn hả hê khi ý đồ đen tối của họ đạt được: bôi nhọ lãnh đạo tôn giáo, để từ đó tiến tới “phi nghĩa hóa” chính nghĩa đấu tranh đòi công bằng của người Công giáo trong vụ đất đai Tòa Khâm sứ và Thái Hà!!!
Bất cứ người lương thiện nào khi đọc trọn vẹn câu nói của ĐTGM Ngô Quang Kiệt cũng đều nhìn nhận rằng ngài không hề nhục nhã về dân tộc mình, mà nhục nhã về nhiều mặt yếu không đáng phải yếu do cái cơ chế ngăn chặn sự thăng tiến của dân tộc Việt Nam tạo nên bằng việc thao túng những nghi kỵ, chia rẽ, trì trệ, hủ bại về cả ba mặt dân tâm, dân sinh và dân trí… Sau khi bày tỏ tâm trạng nhục nhã của mình, Đức Cha Kiệt nói lên ngay cái hoài bão trong sáng của mình, cái ước vọng tự sâu thẳm của lòng mình, rằng “Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng” . Tại sao lại gạt phăng lời tâm huyết tích cực ấy đi một cách vô liêm sỉ đến như vậy? Người tự trọng và có lương tri không ai manh tâm chẻ đôi chẻ ba lời nói của người khác ra khỏi mạch văn hay ngữ cảnh của nó để đạt một mục đích đê tiện của mình!
Thử hỏi Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có phản bội dân tộc mình không khi ngài mạnh mẽ phê phán: “Ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; Thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn” trong bài Hịch Chiến sĩ của ngài?
Còn nhà văn Nguyễn Khải thì tâm sự: “Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy!” (Đi tìm cái tôi đã mất, cuối chương 8).
Rồi sao? Rồi chết toi cái tự hào, cái kiêu hãnh kia đi khi mà chủ nghĩa Cộng sản bỗng chốc tiêu vong cùng với sự sụp đổ tan tành của thành trì Liên Bang Xô Viết vĩ đại đấy!
Nhà văn CS minh họa thói nói dối trong giới quan chức các nước xhch
Nhắc tới nhà văn Nguyễn Khải, chúng ta không quên Nguyễn Khải là một cán bộ tuyên truyền của chính quyền CSVN, là đại tá trong quân đội Cộng sản, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn VN (do CSVN lãnh đạo và chỉ đạo) và là đại biểu Quốc Hội CSVN.
Hầu như suốt cả cuộc đời làm văn nghệ, Nguyễn Khải hết lòng phụng sự đảng, luôn luôn làm tròn ý đảng và lắm lúc trở thành cây roi của đảng quất mạnh vào những văn nghệ sĩ “hữu khuynh” hay “chệch hướng”. Các tác phẩm của Khải đều mang dấu ấn đấu tranh giai cấp đến cuồng nhiệt. Y hệt văn nô CSVN Chế Lan Viên, Nguyễn Khải đã để mặc nhóm lãnh đạo độc tài toàn trị bóp nghẹt tài năng, làm hèn đi con người lẽ ra không đến nỗi hèn. Và rồi cũng muộn màng như Chế Lan Viên với bài thơ Cái bánh vẽ, Nguyễn Khải đến cuối đời (năm 2006) mới dám bộc lộ cái nhìn thật của mình, nhìn vào mình và nhìn vào chế độ, từ đó thay đổi não trạng – tuy hơi muộn màng để viết nên những trang tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” , phơi bày cái hèn của mình và tố cáo trước dư luận cái bỉ ổi của “đảng ta” trong cái xã hội gọi là xã-hội-chủ-nghĩa mà ông đã hết lòng phụng sự. Khải dành hẳn một đoạn dài của thiên tùy bút để mô tả các khía cạnh khác nhau có thói gian dối trong cái xã hội xã-hội-chủ-nghĩa ấy.
Bài viết của chúng tôi đã dài, nhưng có lẽ vẫn còn thiếu sót nếu độc giả chưa đọc đoạn văn độc đáo của Nguyễn Khải. Càng đọc, càng thấy thấm thía. Xin độc giả kiên nhẫn bỏ thêm chút thời giờ để nghe Nguyễn Khải luận về ngôn từ, tức lời nói trong các nước Cộng sản:
“Ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, ‘nói vậy mà không phải vậy’! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.”
Vụ truyền thông Nhà nước CSVN cắt xén lời phát biểu của vị Giám mục Giáo phận Hà Nội là một điển hình minh chứng xác thực việc chính quyền chuyên chế xét nét lời ăn tiếng nói của dân, cắt xét nó, tạo cho nó một ý nghĩa khác với văn mạch nhằm đánh lạc hướng công luận đang có chiều hướng bất lợi và thậm chí nguy hiểm cho họ.
Nguyễn Khải viết tiếp: “Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ ‘gỗ’, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.
Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình.
Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.” (Nguyễn Khải; Đi tìm cái tôi đã mất. Chương 18).
Vì sao người dân cũng nói dối, nói che đậy? Phải chăng bởi vì họ đã từng được lãnh đạo chẳng những dạy dỗ mà còn ép họ phải làm như vậy? Câu chuyện trao đổi giữa Đức Hồng y Trịnh Văn Căn và Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận nêu trên đã vạch trần điều đó. Nhưng thói đời nói dối và che đậy không chỉ lưu thông trong huyết quản của kẻ cai trị và truyền sang cho người bị trị, mà còn len lỏi xâm nhập vào cả môi trường giáo dục.
Ở đây xin nhắc lại mối quan tâm của HĐGMVN đặc biệt đối với lãnh vực giáo dục: “Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. ”
Tiêm virus gian dối vào giáo dục
Nhiều người phải rùng mình khi nghe ở Việt Nam thỉnh thoảng có những tên mắc bệnh SIDA (AIDS) dùng ống kim chứa máu có virus HIV tiêm vào đối tượng khi tống tiền không được. Con virus HIV vô cùng nguy hiểm vì nó là virus giết người. Nhưng con virus DỐI TRÁ thì nguy hiểm gấp bội. Nó giết chết lương tri con người và làm băng hoại tuổi thơ nếu nó được gieo rắc vào môi trường giáo dục.
Chế độ Cộng sản chính là thủ phạm tiêm con virus DỐI TRÁ vào cả cơ chế xã hội lẫn cơ thể giáo dục. Người thầy bị nhiễm virus DỐI TRÁ ắt dễ dàng truyền con virus ấy vào máu thịt trẻ con, nhồi nhét sự gian dối vào tận óc não chúng, khiến tuổi thơ hư hỏng, lương tri chúng nếu không trở thành chai cứng thì cũng hóa nên lệch lạc. Sự dối trá trở thành nếp sống bình thường.
Rồi thì một kiểu sinh hoạt học đường vô cùng linh động, hoạt náo diễn ra: nhờ thầy cô bày đường dẫn lối các em đua nhau lừa dối với thanh tra, đua nhau lươn lẹo trong điểm số thường ngày, gian lận trong thi cử, trong thành tích, trong kết quả học tập và bằng cấp, về tới nhà là lừa cha, phỉnh mẹ. Trong số những trẻ này khi lớn lên, biết đâu có người cũng sẽ trở thành những thứ công bộc gian dối, nhờ học đòi LƯU MANH, DỐI TRÁ từ khi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường.
Ngày 30/6/2006, báo Tuổi Trẻ đăng tải một bức tâm thư gửi tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân. Tác giả bức thư ký tên Quỳnh Anh, một người dân ở Đà Nẳng.
Quỳnh Anh viết: "Làm sao yên lòng khi tôi thường xuyên dạy con không được cóp bài bạn, không được sử dụng tài liệu trong thi cử nhưng đọc báo thấy chuyện gian lận trong thi cử ngày càng trắng trợn?
"Làm sao yên lòng khi cháu tôi về kể lại rằng trước khi vào tiết thao giảng, cô giáo của cháu dặn tất cả học sinh đều phải giơ tay phát biểu khi cô hỏi, nhưng em nào biết thì đưa tay thẳng, em nào không biết thì đưa tay hơi cong cong để cô biết chừng (nói có trời đất, đây là chuyện hoàn toàn có thật, không phải chuyện tiếu lâm)".
Trần Hồng Hạnh, một nữ sinh lớp 12 ở Hà Nội chia sẻ: [5]"Ngay từ lớp một, học sinh đã nói dối, vậy nên khi đến tuổi chúng em, hà cớ gì lại không nói dối?"
Ôi! Chua xót!
VietnamNet ngày 14/7/2006 có đăng bài viết "Cử Nhân Xấu Hổ" của Phan Hữu Dương ở Hà Nội, trong đó tác giả viết: "Tôi không có ý phủ định những thành tựu của nền giáo dục nước nhà, nhưng tệ nạn chạy theo bằng cấp, mua bằng cấp mua điểm, phần lỗi không chỉ của ngành giáo dục mà có phần lỗi mang tính hệ thống của hiện trạng nói dối, của bệnh thành tích đang tràn lan trong mọi lĩnh vực của đời sống, có 'nhắm mắt' cũng thấy được".
Tác giả bài viết báo động: "Sự giả dối, lừa lọc ngự trị và sẽ thành “chuẩn mực” và quy luật phổ quát của xã hội nếu chúng ta không hành động ngay từ bây giờ…"
Giáo sư Hoàng Tụy than thở [6]: “Hiện nay thói gian dối trong xã hội và nhà trường của ta rất trầm trọng… Học trò gian lận trong thi cử; thầy giáo, cán bộ quản lý giáo dục dối trá khi báo cáo thành tích… Như thế sản phẩm giáo dục làm sao tốt được?” Ông Hoàng Tụy kết luận: “… Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải trừ tận gốc nạn gian dối…” Nói vậy, nhưng thực hiện được như vậy khó lắm! Ai đội đá vá trời? Ai trừ được khi cái gốc nạn gian dối nằm trên đỉnh quyền lực chuyên chế?
Nhưng với thời đại này, chúng ta không đến nỗi bi quan. Bởi vì:
Kết luận
Sự lừa dối trước sau gì rồi cũng sẽ bị vạch mặt và bị phỉ nhổ, nhất là ở thời đại kỹ thuật điện tử này. Thomas L. Friedman [7], tác giả cuốn Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu [8], có kể câu chuyện lừa dối của Cộng sản Liên Xô như sau: "Trong những năm 80, ở Liên Xô, trên tờ Pravda [9], có tấm ảnh được chú thích là 'dòng người chờ phát chẩn ở Hoa Kỳ'. Nhưng nhìn kỹ tấm hình thì ra đó là dòng người xếp hàng trước cửa hiệu bánh mỳ Zabar's ở Manhattan [New York] vào một sáng Thứ Bẩy.”
Kể xong câu chuyện, ông Friedman cảnh cáo: “Đừng có dở cái trò đó thời nay - thậm chí ở Trung Quốc! Một khi người ta có Internet.”
Chính quyền độc tài đảng trị càng dùng hạ sách để truy bức những người quảng bá sự thật và tự do dân chủ qua Internet, Internet càng làm nổi bật giá trị dân chủ hóa của chính công nghệ kỹ thuật số ấy (Internet). Thomas L. Friedman trích dẫn một câu nói để đời của ông Lawrence Grossman nguyên Chủ tịch hãng Truyền hình NBC nói về quá trình dân chủ hóa công nghệ như sau:
"In ấn: biến chúng ta thành độc giả.
Photocopy: biến chúng ta thành những nhà xuất bản.
Truyền hình: biến chúng ta thành khán giả.
Và công nghệ số hóa [tức Internet]: cho phép chúng ta trở thành các hãng truyền thông" (sđd, trang 109).
Trong các vụ bách hại những công dân vận động cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam, các vụ đàn áp người khiếu kiện đất đai và dân oan trong nước, nếu không có internet, bàn dân thiên hạ cả trong lẫn ngoài nước khó mà nhận rõ và đánh giá chính xác những gì “Cộng sản nói” với những gì “Cộng sản làm” và từ đó chuyện bị mắc lừa là chuyện cơm bữa vậy.
*************
Chú thích:
[1] Tùy bút « Đi tìm cái tôi đã mất » của Nguyễn Khải, một cán bộ tuyên truyền của chính quyền CSVN, trong quân đội có cấp bậc đại tá, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn VN và là Đại biểu Quốc Hội.
[2] Xuân Vũ, tên thật là Bùi Quang Triết, sinh năm 1930 tại tỉnh Bến Tre, tham gia kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi, gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc do Trần Bạch Đằng chỉ huy. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tập kết ra Bắc. Năm 1958, được kết nạp vào Hội nhà văn. Năm 1965 được tham gia chiến trường miền Nam với nhiệm vụ sáng tác văn nghệ cổ súy tinh thần chiến đấu trong bộ đội. Nhân dịp này, ông bỏ hàng ngũ Cộng sản, trở về hàng ngũ quốc gia. Từ đó ông sáng tác nhiều hơn. Các tác phẩm của ông phần lớn có sức thu hút mạnh vì lối hành văn khá linh hoạt và lôi cuốn.
[3] Những trích dẫn từ cuốn Un Excommunié (có người dịch là Kẻ Bị Khai Trừ, người khác dịch là Kẻ Bị Vạ Tuyệt Thông theo nguyên ngữ excommunié) của Ls Nguyễn Mạnh Tường lấy từ cuốn Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư của Minh Võ.Thông Vũ xuất bản. CA, 1999. Các đoạn trích từ hồi ký Tôi Bỏ Đảng của Hoàng Hữu Quýnh hay từ "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" của Nguyễn Văn Trấn, hoặc của Xuân Vũ... cũng thế.
[4] Kỷ sư, đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại VN.
[5] Giơ tay phát biểu là trò lừa dối, thường học sinh bị bắt phải biểu diễn trong các cuộc thanh tra nhà trường hơn là trong các giờ học bình thường.
[6] Hoàng Tuỵ: Cần thay đổi cách nhìn đối với giáo dục. Trích từ quyển “Giáo Dục – Những lời tâm huyết. NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2006.
[7]Thomas L. Friedman là một nhà báo từng đoạt giải Pulitzer, bình luận viên quan hệ quốc tế của The New York Times. Thomas L. Friedman là một trong những nhà bình luận hàng đầu của nước Mỹ về quan hệ quốc tế. Sinh năm 1953 tại Minneapolis, ông đã học tại Đại học Brandeis và Trường St. Anthony, Đại học Oxford. Cuốn sách đầu tay của ông Từ Beirut đến Jerusalem đoạt giải National Book Award năm 1988. Friedman cũng đoạt hai giải thưởng Pulitzer trong thời gian làm Trưởng phân xã tờ The New York Times tại Beirut và Jerusalem. Friedman hiện sống ở Bethesda, Maryland, cùng vợ là Ann và hai con gái là Orly và Natalie.
[8] Cuốn The Lexus And The Olive Tree, Lê Minh dịch, NXB Khoa Học Xã Hội, 2005, do Tổng Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn tài trợ. Chúng tôi trích dẫn từ bản dịch hơn 700 trang của Lê Minh. Cuốn sách bàn về toàn cầu hóa, trong đó tác giả dành ra Chương 4 "... Rồi những bức tường theo nhau sụp đổ" để đề cập tới hiệu quả dân chủ hóa mà Internet tác động trên các chính thể độc tài.
[9] Pravda (Sự Thật), cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xô trước thập niên 90, giống như tờ Nhân Dân của CSVN từ trước đến nay.
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2008
Nuôi tham nhũng : Để nuôi lòng trung thành của cán bộ đối với đảng và nhà nước
Nhận định về tự do ngôn luận và tự do báo chí trong nước qua vụ xử bất công hai nhà báo
Qua vụ án xử hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn văn Hải, và hai sĩ quan công an Nguyễn Xuân Quắc, Đinh Văn Huynh, chúng ta có thể rút ra một số nhận định:
1) Để nhìn mọi vấn đề trong nước một cách trung thực, chính xác, điểm mấu chốt cần nắm vững là: CSVN không chấp nhận bất cứ điều gì (lời nói, sự kiện, việc làm, thông tin, bình luận, tổ chức, cá nhân…) gây nguy hiểm cho mục đích của họ là độc quyền cai trị vô thời hạn trên quê hương Việt Nam. Để đạt cho được mục đích ấy, họ không từ bất cứ điều xấu xa, đê tiện, bỉ ổi, gian trá nào.
2) Việc không chấp nhận nói trên được thể hiện bằng nhiều phương cách đối phó khác nhau tùy mức độ nguy hiểm người dân gây ra cho họ và cũng tùy theo tình huống.
− Mức độ nguy hiểm càng cao thì cách đối phó càng mãnh liệt: nguy hiểm ở mức độ thấp thì người dân bị mời đến trụ sở công an “làm việc”; cao hơn thì bị theo dõi, sách nhiễu, quản chế; cao hơn nữa thì bị đánh đập, tra tấn, giam, tù (lâu hay mau tùy tội trạng); và cao nhất thì bị thủ tiêu.
− Phương cách đối phó mạnh hay nhẹ cũng tùy theo tình huống. Lúc đảng và nhà nước bị áp lực quốc tế mạnh thì họ đàn áp dân nhẹ hơn lúc bị áp lực yếu; người dân nào nổi tiếng, được thế giới biết đến thì được đối xử nương tay hơn những ai ít được biết đến; lúc đảng đang gặp nguy cấp thì họ mạnh tay hơn lúc bình thường… Do đó, cùng làm một việc nguy hiểm cho đảng và nhà nước như nhau, nhưng người nổi tiếng thì chỉ bị hỏi thăm hay thẩm vấn qua loa, còn người dân bình thường thì có thể vào tù. Cùng một “tội danh” như nhau, nhưng khi CSVN cần lấy điểm với quốc tế để vào WTO thì họ có thể làm ngơ bỏ qua, nhưng sau khi vào được WTO rồi thì họ bỏ tù…
3) Hiện nay, CSVN đang bị thế giới chỉ trích và lên án quá nhiều về tình trạng vi phạm nhân quyền, đặc biệt về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, nên họ tìm cách tạo ra một thứ tự do ngôn luận và tự do báo chí giả tạo để đánh lừa dư luận quốc tế và trong nước.
− Trong môi trường tự do giả tạo này, các nhà báo tạm thời được phép nói bất cứ điều gì miễn không gây nguy hiểm cho chế độ. Do đó, họ có quyền chống tham nhũng một cách chung chung, chẳng hạn được phép chỉ trích hoặc đưa tin về sự tham nhũng hay ăn cướp của những cán bộ cấp thấp, được phép chỉ trích chính sách của nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế… ở mức độ vừa phải. Nhưng họ không được phép chỉ trích đảng và nhà nước về chính trị, nhất là không được phê bình tính độc tài, độc đảng, điều 4 hiến pháp; tuyệt đối không được nói nguyên nhân của những tệ nạn xã hội là do cơ chế độc tài độc đảng của chế độ, v.v...
− Đối với các nhà đấu tranh dân chủ cũng tương tự như vậy, nhưng được nói mạnh hơn các nhà báo một chút, để chứng tỏ đảng và nhà nước cũng tôn trọng đối lập (một thứ tôn trọng giả bộ). Đảng và nhà nước chấp nhận cho các nhà đấu tranh dân chủ có quyền nói, viết, thậm chí phê bình chỉ trích chế độ về mặt chính trị… miễn là đừng làm gì nguy hiểm quá đáng cho chế độ như treo biểu ngữ, rải truyền đơn, hô hào biểu tình, liên kết thành tổ chức, lập hội lập đảng… Nói chung, CSVN chấp nhận cho các nhà dân chủ chống đối ở mức độ vừa phải, không gây nguy hiểm quá đáng cho chế độ. Mức này thay đổi tùy theo tình hình trong nước và thế giới. Các nhà dân chủ nào chấp nhận “tiêu chuẩn NATO” (No Action, Talk Only = chỉ nói hoặc viết chứ không hành động, không tổ chức) thì được tương đối an toàn, nhiều lắm thì chỉ bị mời làm việc thôi… Những nhà dân chủ nào dám hành động cụ thể là có thể vào tù ngay như Lm Nguyễn Văn Lý, Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân, Nv Nguyễn Xuân Nghĩa, cô Phạm Thanh Nghiên, anh Phạm Văn Trội, v.v... (hiện nay, riêng Khối 8406, đã có khoảng trên 40 thành viên tích cực hoạt động đang bị giam giữ).
Việc chống tham nhũng của đảng và nhà nước CSVN cũng chỉ là chống giả tạo để làm giảm bớt sự bất mãn của dân chúng, đồng thời để tỏ thiện chí đối với dư luận trong và ngoài nước. Qua vụ án hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn văn Hải, người ta nhận thấy rõ ràng đảng và nhà nước CSVN − theo cách nói châm biếm của dư luận − chỉ chống tham nhũng “từ thắt lưng hay đầu gối trở xuống”, và không chấp nhận chống tham nhũng “từ thắt lưng hay đầu gối trở lên”. Nhà báo nào dám tố cáo những cán bộ cộng sản cao cấp tham nhũng, cướp đất đai tài sản của dân hay của công thì đều bị coi là “có tội”, là vi phạm pháp luật. Tất cả mọi hành vi tham nhũng, ăn cướp của các thành viên trong bộ chính trị, hoặc của các cấp bộ trưởng đều được CSVN mặc nhiên xem là “bí mật nhà nước”. Hành vi tham nhũng hay ăn cướp càng lớn thì càng được coi là “tối mật”. Tiết lộ “bí mật nhà nước” là vi phạm luật. Tiếc rằng hai nhà báo và hai sĩ quan an ninh kia đã không am tường điều khoản quan trọng của “luật rừng” này để biết đường mà tránh. Tuy nhiên, nếu họ biết mà vẫn dám tiết lộ hay nói lên sự thật thì họ đúng là những anh hùng.
Nếu đảng và nhà nước CSVN muốn chống tham nhũng thật sự, chắc chắn tham nhũng sẽ không thể tồn tại được khi mà họ đang nắm toàn bộ quyền lực trong tay: muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ… Nếu ai tham nhũng, ai cướp đất của dân mà đều bị đưa ra pháp trường xử bắn, hay xử 20 năm tù, bất chấp người ấy là tổng bí thư đảng hay thủ tướng, thì bảo đảm tình trạng tham nhũng và cướp đất của dân sẽ chấm dứt ngay tức khắc. Nhưng rất tiếc, đảng không thực tâm chống tham nhũng…
Tình trạng tham nhũng, cướp đất của dân ngày càng lan tràn và gia tăng khiến ai cũng có thể nghĩ rằng: chẳng những đảng và nhà nước CSVN không hề chống tham nhũng, chống cướp đất mà còn nuôi tham nhũng, dung túng cho cán bộ của mình ăn cướp của dân. Việc xử những người tham nhũng, đưa ra một vài cán bộ cấp thấp làm “dê tế thần” chỉ là để “làm bộ” hầu đánh lừa dư luận, cho người dân đỡ bất mãn và tin tưởng vào thiện chí (giả bộ) của đảng và nhà nước hơn.
Nuôi tham nhũng, dung túng cho cán bộ của mình ăn cướp của dân như thế để làm gì? Thưa: Để nuôi lòng trung thành của cán bộ đối với đảng và nhà nước. Đó cũng là cách đảng và nhà nước trả công hoặc thưởng công cho những cán bộ trung thành với mình mà đảng không phải mất đồng xu nào của mình, trái lại còn được họ tỏ lòng biết ơn cách cụ thể bằng những “phong bì” hậu hĩnh… Cán bộ nào trung thành với đảng và nhà nước thì dù có tham nhũng, hối lộ, ăn cắp, ăn cướp của dân hay của công cũng được hưởng đặc ân của đảng là không bị truy tố, bị quy trách nhiệm hình sự. Nếu lỡ đảng hay nhà nước không bao che được − do tội tầy đình không lấp liếm được − thì phạm nhân cũng sẽ được xử phạt nhẹ hết sức có thể. Trường hợp Nguyễn Việt Tiến và Bùi Tiến Dũng là một thí dụ điển hình: bị xử phạt hết sức nhẹ, lại được phục hồi chức danh nhanh chóng…
Một khi đã tham nhũng, đã từng ăn cắp hay ăn cướp của công hay của tư thì tội danh đã có sẵn đó, nếu cán bộ nào tỏ ra không còn trung thành với đảng và nhà nước nữa, không chịu thi hành lệnh của đảng và nhà nước ban ra thì lập tức đảng và nhà nước truy tố tội đã có sẵn đó ra trước tòa… Do đó, những cán bộ nào đã có tội với nhân dân chỉ còn một cách duy nhất là tiếp tục trung thành với đảng và nhà nước mà thôi. Vì thế, rất nhiều cán bộ biết rằng theo đảng là đi lầm đường, là phản bội dân tộc, là hành động trái với lương tâm, nhưng vẫn cứ phải tiếp tục trung thành với đảng và nhà nước CSVN. Càng trung thành với đảng và nhà nước thì càng dễ bị biến chất, thoái hóa.
Bộ máy độc đảng, độc tài quyết duy trì quyền lực bằng bất cứ giá nào chính là bộ máy làm những bộ phận trong đó − tức các cán bộ trung thành với đảng − càng ngày càng thoái hóa, hư hỏng, không còn nhân tính. Những ai muốn sống theo lương tâm, muốn sống trong sạch, muốn thật sự phục vụ dân chúng đều bị đẩy ra khỏi guồng máy, vì những người này luôn luôn bị những người còn lại lo sợ sẽ có ngày trở nên nguy hiểm cho họ. Những ai muốn trở về đường ngay nẻo chính, trở về với quê hương dân tộc sớm muộn cũng sẽ bị sa thải hoặc bị guồng máy nghiền nát. Trường hợp Nguyễn Việt Chiến hay Nguyễn Xuân Quắc là những thí dụ điển hình và mới nhất. Xa hơn về trước có Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Anh Kim, Phạm Quế Dương, Nguyễn Vũ Bình, v.v... Còn biết bao người không tên tuổi đã bị sa thải hay nghiền nát mà chúng ta không hề biết tới. Nhưng đất nước ta, dân tộc ta còn phần nào giữ được bản chất anh hùng và tốt đẹp của người Việt cũng là nhờ những con người không sợ bị sa thải hay nghiền nát ấy.
Rất mong những Nguyễn Việt Chiến, những Nguyễn Xuân Quắc, những Phạm Thanh Nghiên, những Nguyễn Hoàng Hải (Điếu Cày)… những con người “uy vũ bất năng khuất” ấy được nhân lên gấp bội nơi dân tộc Việt Nam. Có như thế đất nước ta mới hy vọng thoát được ách nô lệ độc tài của đảng CSVN. Nếu ai cũng hèn nhát khiếp nhưọc cả thì có phải làm kiếp nô lệ mãi cũng không có gì là lạ!
Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2008
CHU NGHIA CONG SAN CON DO DI TRUOC: BON AN CUOP THEO SAU
Mai phục thập diện !
Thọ địch lưỡng đầu !
Cộng sản là một chủ nghĩa và là một chế độ chuyên tạo ra kẻ thù cho mình. Ngay từ lý thuyết, thay vì cổ xúy tương sinh, cộng tồn, CS lại chủ trương đấu tranh, giành giật. Trong xã hội quốc gia thì đấu tranh giành giật giữa các giai cấp, trên phương diện quốc tế hoàn vũ thì đấu tranh giành giật giữa cộng sản và tư bản. Thành thử từ khi có chủ nghĩa và chế độ CS, kể từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ngoại trừ hai trận thế chiến, luôn có những cuộc gọi là "giải phóng", "cách mạng" gieo máu lửa, hận thù khắp nơi, tàn sát cả trăm triệu người, mà kẻ chủ yếu gây ra không ai khác hơn là CS. Đến khi chiếm được một quốc gia, nắm được một chính quyền, CS vẫn nhìn thấy kẻ thù khắp nơi mọi chốn. Kẻ thù hoặc ảo tưởng, hoặc có thật, hoặc cố tạo ra, để bắt mọi đảng viên luôn cảnh giác, buộc mọi công dân luôn đề phòng, hầu dồn tâm trí sức lực bảo vệ sự tồn tại của chế độ và ngai vàng cho chính đảng CS. Trong thực tế, với cái chủ nghĩa duy vật vô thần kiểu đấu tranh, với cái chế độ phi nhân bất nghĩa kiểu áp đặt, với cái chính đảng chuyên chế độc tài kiểu toàn trị, với cái cuồng vọng thống trị kiểu nô hóa cả thế giới, CS đương nhiên đặt mình làm kẻ thù trước toàn thể nhân dân và nhân loại. Chính vì thế mà nhân loại và nhân dân đã sớm thanh toán nó tại Liên xô và Đông Âu cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ trước.
Tại Việt Nam, ngay từ khi cướp chính quyền tháng 8-1945, tiếp đến là tiêu diệt các đảng phái quốc gia, "đào tận gốc trốc tận rễ trí phú địa hào", đàn áp văn nhân nghệ sĩ đòi tự do tư tưởng, rồi khoác lên toàn thể dân Bắc một chế độ tàn bạo gian dối, nghèo đói tụt hậu, CS đã biến những chiến sĩ bảo vệ tổ quốc, những nông dân nuôi sống xã hội, những trí thức đầu óc của dân tộc và nói chung là nhân dân nửa nước thành kẻ thù không đội trời chung với đảng.
Đến khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa bằng vũ lực, ăn cướp trắng trợn tài sản công lẫn tư của miền Nam, đày đọa quân nhân cán chính chế độ cũ trong các trại tù chốn ma thiêng nước độc, tống xuất cư dân thành thị vào các vùng kinh tế mới sỏi đá khô cằn, bần cùng hóa nửa nước đang trù phú bằng những chính sách kinh tế cưỡng bức và ngu xuẩn, tiếp tục chính sách cai trị độc địa, thất đức tàn ác còn hơn cả xâm lăng Tàu và thực dân Pháp, CS lại tạo thêm cho mình hàng chục triệu kẻ thù nữa. Để đối phó với đại khối dân tộc đang uất hận này, CS một mặt tổ chức bộ máy đàn áp khổng lồ gồm quân đội chính quy và công an chuyên nghiệp mà theo cựu đại tá Bùi Tín là 3/100 người dân (thay vì 3/1000 dân tại các quốc gia khác), mặt khác bưng bít thông tin, xuyên tạc lịch sử và lý luận ngụy biện, trình bày đảng như đại ân nhân của dân tộc và đại thủ lĩnh đưa đất nước đến bến bờ hạnh phúc, đỉnh cao phát triển. Đa phần nhân dân “ngậm một khối căm hờn trong cũi sắt”, một số liều chết bỏ nước ra đi.
Thế nhưng, cuối thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, khi các chế độ độc tài thi nhau rơi rụng, khuynh hướng dân chủ hóa toàn thắng trên toàn thế giới, ý thức về tự do nhân quyền bừng sáng nơi lòng người, các phương tiện thông tin phát triển như vũ bão, thì cái kiềng ba chân (bít lấp, bịp lừa, bạo lực) trên đó đặt ngai CS cũng lần lượt gãy từng chân một. Nông dân không chịu nổi việc cướp đất đã đứng dậy nhiều nơi: đồng bằng Cửu Long năm 1988, Thanh Nghệ Tĩnh các năm 1990, Thái Bình năm 1996, Xuân Lộc Đồng Nai năm 1997, Thọ Đà Hà Tây năm 1998, Sa Đéc Đồng Tháp năm 2000… Các nhà đấu tranh dân chủ và đối kháng tôn giáo ý thức việc mất tự do cũng nhất tề lên tiếng và liên kết hợp đoàn kể từ năm 2001 qua Hội đồng liên tôn, Khối Tự do 8406, Liên minh dân chủ nhân quyền, đảng Thăng Tiến, đảng Dân chủ… Các công nhân bị chủ nhân bóc lột và công đoàn Nhà nước khống chế, từ đầu năm 2005 cũng đồng loạt đình công khắp nơi, rồi năm 2006 thì đứng dậy đưa ra Yêu sách 8 điểm, thành lập Công đoàn độc lập, dựng nên Khối Đoàn kết Công nông…
Đầu năm 2007, phong trào đấu tranh nông dân càng bộc phát mạnh mẽ do chính sách cướp đất của CS càng gia tăng tàn bạo, phong trào đấu tranh dân chủ cũng dâng cao ngút trời do biện pháp đàn áp đối kháng thêm khốc liệt dã man, phong trào đấu tranh tôn giáo cũng bừng dậy không cưỡng nổi do chủ trương công cụ hóa và công sản hóa các giáo hội ngày càng ngang nhiên lộ liễu… Đến cuối năm 2007, với phiên tòa phúc thẩm ngày 27-11 xử hai chiến sĩ nhân quyền vừa lếu láo trắng trợn bên trong, khiến các luật sư biện hộ phải làm đơn phản đối, vừa trấn áp tàn bạo bên ngoài, khiến nhân dân và quốc tế càng thêm công phẫn; với việc Trung Cộng chính thức lập chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Trường Sa của VN ngày 2-12, khơi lại cả một quá trình nhượng địa của Việt cộng ngay từ năm 1958; với việc nhà cầm quyền một mặt phản ứng cách khiếp nhược đớn hèn trước quân xâm lăng, một mặt ngăn chận đàn áp lòng yêu nước của nhân dân mọi giới, đặc biệt giới trẻ, khiến càng lộ mặt phản quốc; với việc các Giáo hội, đặc biệt Công giáo, nhất loạt đòi lại đất đai cơ sở của mình tại nhiều nơi… một cách hiếu hòa nhưng quyết liệt hơn bao giờ hết; với việc giới đấu tranh dân chủ, giới văn nhân nghệ sĩ, giới nhà báo tự do, giới sinh viên học sinh, giới thành viên các trang mạng đua nhau tìm hiểu và phổ biến toàn bộ hồ sơ bán đất bán biển của VC đồng thời quyết tâm biểu tình liên tục chống quân cướp nước và quân bán nước bằng mọi cách; với việc đồng bào hải ngoại đủ mọi tổ chức đoàn thể đang biểu tình khắp thế giới trước hai tòa đại sứ, đang thành lập hồ sơ tội phản quốc của đảng CSVN, đang vận động quốc tế ủng hộ chủ quyền VN trên Hoàng Trường Sa quần đảo, thậm chí có tin đồn đang dự tính thành lập một chính phủ VN lưu vong để đủ tư cách đối trọng và đối đầu với nhà cầm quyền Hà Nội… Tất cả đã làm nên một thế thập diện mai phục, khiến Việt Cộng lâm cảnh thọ địch lưỡng đầu, đỡ đòn tứ phía….
Nhưng chưa hết! Từ bên kia bờ đại dương, Dự luật Nhân quyền cho Việt Nam HR 3096 nay như một lưỡi gươm Damoclès treo lủng lẳng trên đầu cái chế độ ngang nhiên chà đạp mọi quyền làm người của dân tộc, sự đòi hỏi của bổn phận thành viên bất thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nay đang thách thức cái nhà nước xem ra bất lực trước việc bảo vệ an ninh chính lãnh thổ của mình. Song song đó, ngoài biển đông, người đồng chí, người anh em Bắc phương vĩ đại càng lúc càng tỏ ra là kẻ ngoại thù vạn kiếp, quân xâm lược ngàn năm, càng lúc càng tỏ ra là đàn anh thẳng tay bắt nạt đàn em yếu thế, chủ nhân đối xử khắc nghiệt đối với đầy tớ khiếp nhược. Theo blog “Chứng nhân lịch sử”, “Hiện nay tàu đánh cá của ngư dân Trung Quốc đã xuất hiện đầy dẫy quanh khu vực quần đảo Trường Sa. Điểm đặc biệt là mỗi nhóm tàu đánh cá của TQ đều có ít nhất một tàu hải quân theo bảo vệ. Sau khi đánh cá xong, các ngư thuyền này sẽ được tàu hải quân TQ hộ tống trở về... Cùng với việc tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo HS và TS, tàu hải quân TQ đã liên tục thực hiện các cuộc tuần duyên để "bảo vệ lãnh hải". Rất nhiều lần tàu hải quân TQ đã áp sát VN, cách đất liền chỉ khoảng 40 hải lý. Điểm đặc biệt là mỗi khi phát hiện có sự xâm nhập của tàu hải quân TQ, phía VN cũng cử tàu hải quân tiến ra biển. Nhưng thay vì bắt giữ hoặc trục xuất tàu TQ, các tàu hải quân VN chỉ bắc loa kêu gọi: "Đây là hải phận VN. Đề nghị các đồng chí quay thuyền trở lại". Bất chấp lời "kêu gọi" đó, các tàu hải quân TQ vẫn tiếp tục "tuần duyên" và chỉ quay lại sau khi hoàn thành sứ mệnh”.
Trong nội tình đảng và nhà nước CS, mới đây lại thêm một cú đòn choáng váng. Đó là Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo kiêm Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vừa được hơn 100 nhóm thông tin tự do trong nước cùng quyết định tặng phong danh hiệu “Nhân vật tệ hại nhất của năm 2007” vì thành tích “thúc đẩy nhanh chóng việc xuống dốc đến mức đáng xấu hổ của nền giáo dục”. Người đứng đầu một định chế quan trọng nhất và đáng kính nhất trong một đất nước mà nhận được danh hiệu ô nhục như thế thật là điều chưa từng thấy trong lịch sử giáo dục nước nhà. Sự nhu nhược và thiếu khả năng giải quyết vấn đề của ông ta, hay nói đúng hơn là tránh né va chạm với các khối quyền lực Đảng đang chia nhau cầm nắm ngành giáo dục, đã khiến nạn tham nhũng và nạn bạo hành trong trường học mỗi lúc một tăng, kỷ cương học đường, uy tín giáo giới, trình độ của thầy lẫn trò càng lúc càng giảm, và nhất là đường hướng giáo dục tiếp tục là đường hướng ngu dân, tạo ra những thần dân nô lệ đảng, vâng lời đảng, mù tịt các tội ác của đảng thay vì tạo ra những công dân tự do, đầy trách nhiệm, đủ khí phách, đậm lòng yêu nước thương nòi. Các công văn của bộ GD&ĐT cấm sinh viên học sinh biểu tình mới đây là những bằng chứng. Ngoài ra, những lực lượng tham nhũng trong đảng và nhà nước đang tìm cách cướp của công lẫn của tư, tạo ra những chính sách thất nhân tâm cũng là một loại kẻ thù đáng sợ của đảng. Cũng không thể không nói tới một kẻ thù khác của CS đã quá vãng nhưng đang “đội mồ sống lại” để hỏi tội đảng, đó là hàng ngàn oan hồn chết trong biến cố Tết Mậu Thân do cuộc thảm sát rùng rợn mà toàn thể đồng bào và dân tộc sắp kỷ niệm 40 năm.
Lâm thập diện mai phục, phải thọ địch lưỡng đầu, bị mọi tầng lớp nhân dân tấn công, bị những lực lượng tinh thần và dân chủ chất vấn như thế, nhất là bị Đại Hán phương Bắc đội lốt Đàn anh vĩ đại ngang nhiên thi hành kế hoạch cướp nước đã chuẩn bị từ 50 năm trước, khiến mình có cơ nguy trở thành tội đồ phản quốc đại nghịch của dân tộc, lẽ ra đảng CSVN phải biết mình đang cô độc, đang có lỗi, để tỉnh ngộ mà trả lại mọi tài sản tinh thần và tài sản vật chất, mọi nhân quyền và dân quyền cho đồng bào, để cúi đầu sám hối vì bao tội ác và sai lầm trong quá khứ lẫn hiện tại, để thực hiện cuộc hòa giải với toàn thể dân tộc trong lẫn ngoài nước, hầu đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, giải quyết những vấn đề chính trị xã hội cấp thiết, rồi cùng nhau đương đầu với hiểm họa xâm lăng ngoài cõi. Thế nhưng, với các phản ứng vẫn cứ mù quáng trước tình thế, tàn bạo với nhân dân, khiếp nhược trước đại cường như thấy trong những tuần lễ này của tập đoàn lãnh đạo CS, chắc chắn toàn thể dân tộc phải đứng lên cứu tổ quốc giống nòi, trước hết bằng việc khử trừ loài phản dân hại nước đang ngồi ghế thống trị.
T À I L I Ệ U
Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Thư hiệp thông với Tổng Giáo phận Hà Nội
Kính gởi:
- Đức Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội,
Đồng kính gởi:
- Đức Giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, các Đức Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột, Lạng Sơn, Thái Bình và toàn thể các Đức Giám mục.
- Quý Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội.
Kính thưa Quý Đức Cha, Quý Cha, Quý Tu sĩ cùng Quý Anh Chị Em giáo dân.
Chúng con ký tên dưới đây là đại diện cho một nhóm linh mục nguyện sống theo tinh thần Đức Cố Tổng Giám mục tử đạo Philipphê Nguyễn Kim Điền, gọi tắt là nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, vốn đã dấn thân cùng với dân tộc tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền từ đầu năm 2001 đến nay, xin có đôi lời gởi đến toàn thể Quý vị:
1- Trước hết, chúng con chân thành hiệp thông với Đức Tổng Giám mục cùng toàn thể Dân Chúa tại Tổng Giáo phận Hà Nội, đặc biệt tại Giáo xứ Chánh tòa, Giáo xứ Thái Hà và Giáo xứ Hà Đông. Chúng con hoan nghênh việc Đức Tổng Giám mục đã gởi văn thư ngày 15-12-2007 cho nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam để dứt khoát đòi lại đất đai cơ sở của Tòa Khâm sứ vốn là tài sản lâu đời và chính đáng của Tổng Giáo phận Hà Nội. Chúng con hoàn toàn nhất trí với việc cộng đoàn Tổng Giáo phận bày tỏ thái độ đồng lòng với vị Chủ chăn qua việc đặt lại tượng Đức Mẹ trong sân tòa Khâm sứ, lấy chữ ký giáo dân 5 tỉnh thành thuộc Giáo phận và kiên trì cầu nguyện trước tòa Khâm sứ cho đến khi đạt được mục đích. Chúng con cũng hoàn toàn nhất trí với Cha Quản xứ và giáo dân Giáo xứ Thái Hà lẫn Giáo xứ Hà Đông trong việc bày tỏ sự phản kháng hành vi xâm chiếm tài sản Giáo xứ bằng cách liên tục cầu nguyện, đặt tượng và dựng lều quanh khu vực bị cưỡng đoạt. Đây là thái độ phản ứng, cung cách đấu tranh đầy tinh thần Kitô giáo.
Cùng với Tổng Giáo phận, cụ thể với Tòa Tổng Giám mục và Cha Chánh xứ Thái Hà, chúng con hoàn toàn phản đối văn thư ngày 11-01-2008 của Ủy Ban Nhân Nhân Dân thành phố Hà Nội. Không ai được quyền ngăn cấm, hăm dọa, vu khống “vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng” đối với các Kitô hữu tụ tập cầu nguyện cách trật tự, ôn hòa tại nơi đang bị chiếm đoạt bất công để nói lên quyết tâm đòi lại công lý cho mình. Không ai được quyền biện hộ, bao che cho những cá nhân, tập thể, tổ chức cướp giật đất đai của người khác.
Chúng con xin hiệp lòng với Đức Giám mục Giáo phận Đà Lạt, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, các Đức Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột, Lạng Sơn, Thái Bình cùng mọi tín hữu trong Giáo phận của các ngài; chúng con xin hiệp lòng với toàn bộ Dòng Chúa Cứu Thế và nhiều cộng đồng lẫn cơ quan Công giáo VN khắp năm châu đã mau mắn hiệp thông với Tổng Giáo phận Hà Nội, với 3 Giáo xứ Chánh tòa, Thái Hà và Hà Đông bằng cầu nguyện, gởi thư, mở chiến dịch vận động chính khách quốc tế… Đây là tấm gương đáng được toàn thể hàng Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân Việt
2- Tuy nhiên, chúng con cũng buồn lòng phân ưu khi biết tin các Chủ chăn Tổng Giáo phận Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà đã khiếu kiện nhà cầm quyền về chuyện đất đai từ hơn 10 năm qua nhưng vẫn không thấy một hồi âm đáp trả hay thiện chí giải quyết. Chúng con cũng buồn lòng khi thấy hành động đi không mà xem ra lại về không của Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN đã lặn lội từ Đà Lạt ra Hà Nội để gặp giới lãnh đạo chính trị cao cấp; khi đọc những lời tâm sự đầy ão não của Đức Giám mục Giáo phận Thái Bình qua hai bài viết “Niềm vui chưa qua, nỗi buồn đã tới!” và “Bước đầu Hòa giải... đã sớm thất bại”, trong đó Đức Cha không thấy lóe lên hy vọng về việc giải quyết chẳng những các cơ sở đất đai to lớn mà còn vô số các đất đai cơ sở nhỏ của Giáo hội VN. Chúng con cũng buồn lòng khi biết Cha Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế và một số linh mục trong Dòng tại Giáo xứ Thái Hà vẫn bi quan, chán nản vì chỉ sợ mình có thiện chí tuân giữ các điều kiện nhưng về phía bên kia thì sẽ lợi dụng để làm tới, như họ đã từng làm. Chúng con hết sức cảm phục Quý Đức Cha và Quý Cha đã luôn nhẹ nhàng kiến nghị, thành tâm đối thoại và kiên nhẫn đợi chờ, dù vấn đề luôn cấp bách và dù thái độ của nhà cầm quyền và những kẻ chiếm đoạt luôn thiếu thiện chí.
Cùng với tất cả mọi người, chúng con công phẫn trước việc nhà cầm quyền CSVN đã có những hành vi vô luật như dùng lực lượng công an đông đảo bao vây, hăm dọa, đàn áp những người cầu nguyện, như ghi hình, quay phim, phỏng vấn giả, dựng hiện trường giả để lèo lái dư luận theo một hướng khác, như bao che cho những người xâm chiếm tiếp tục xây dựng hay biến dạng hiện trường trên những mảnh đất và cơ sở đang tranh chấp. Chúng con công phẫn trước việc Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã ra văn thư số 273 ngày 11-01-2007 với giọng điệu kẻ cả, ban ơn, với lời lẽ hăm dọa, trù dập, với lập luận thóa mạ, vu khống hết sức vô lý, phi pháp và thiếu văn hóa nữa. Chúng con công phẫn trước lời tuyên bố ngang ngược của ông Trưởng ban Tôn giáo chính phủ cho rằng chẳng có chuyện “trả lại hay không trả lại”, bởi vì theo ...Luật thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý, nên nhà nước sẽ từ từ “xem xét” Giáo Hội “có nhu cầu” bao nhiêu, thế nào thì sẽ “giải quyết” và “ban cho” mà thôi !?!
Những sự kiện, hành động và thái độ đôi bên như vừa nói nằm trong một vấn đề lớn của xã hội Việt
3- Việc các Giáo hội và các Giáo phận đòi đất cho đạo, việc các thị dân và nông dân đòi đất cho nhà không thể không gợi nhớ việc toàn dân và xã hội đòi đất cho nước đang bị mất vào tay Trung Quốc do sự đồng lõa của nhà cầm quyền Cộng sản VN. Như Quý Đức Cha, Quý Cha, Quý Tu sĩ và Anh Chị Em đều biết, kể từ tháng 12 năm rồi và tháng 01 năm nay, đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước đã rúng động vì việc Trung Quốc đã chính thức biến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (cùng với quần đảo Trung Sa) thành huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của họ. Biến cố này đã khơi lại và vạch trần cả một quá trình dâng đất dâng biển cho Bắc triều Đại Hán của chính đảng Cộng sản VN qua công hàm bán nước ngày 14-09-1958, qua hai hiệp định Việt Trung về biên giới năm 1999 và về lãnh hải năm 2000, khiến cho đất nước mất đi gần 1000 km trên đất (trong đó có ải Nam quan và thác Bản Giốc), hơn 10.000 km trên vịnh Bắc bộ và nay là hai quần đảo Hoàng Trường Sa vốn rất quan trọng về an ninh lãnh thổ, an ninh kinh tế và an ninh lương thực. Nguy cơ đất Việt mất đi, dân
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, đã có nhiều cuộc biểu tình trong nước của nhiều giới đồng bào nhưng đều bị nhà cầm quyền ngăn cản, cấm đoán hay đàn áp thô bạo; đã có nhiều tuyên cáo lên án Cộng sản Trung quốc cướp nước và Cộng sản Việt Nam bán nước của không ít cá nhân và tập thể đạo đời nhưng đều bị các cơ quan truyền thông quốc nội im lặng không đăng tải (đang lúc tại hải ngoại thì đồng bào biểu tình, hội thảo… phản kháng cách sôi sục). Đây cũng là nằm trong bản chất và đường lối của một chính đảng chỉ biết giữ quyền lực và quyền lợi cho mình, bất chấp sự tồn vong của đất nước, sự an vui hạnh phúc của toàn dân và sự phát triển chân chính của mọi tập thể dân sự và tôn giáo trong xã hội. Chúng con nghĩ rằng lấy lại việc đất cho nhà, đất cho đạo và đất cho nước là ba bổn phận đi liền với nhau và ba giới đòi đất cần hỗ trợ và phối hợp với nhau. Nước mất thì nhà tan và đạo diệt !!!
Trong tâm tình mến yêu Mẹ Giáo hội và kính trọng Quý Đức Cha và Quý Cha là lãnh đạo dân Chúa, cũng như trong tâm tình mến yêu Mẹ Tổ quốc và kính trọng Nhân dân là chủ nhân đích thực của Đất nước mà chúng con viết lên Thư hiệp thông này.
Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của các thánh nhân tử đạo và các anh hùng tử sĩ, xuống cho Quý Đức Cha và Quý Cha nhiều ơn khôn ngoan và can đảm.
Làm tại Việt Nam ngày 19-01-2008, kỷ niệm 34 năm Tổ quốc mất quần đảo Hoàng Sa và tưởng nhớ 58 chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa vị quốc vong thân trong lòng biển cả.
Đại diện nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
- Linh mục Têphanô Chân Tín, dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế
(đang bị theo dõi tại xứ)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế
(đang bị giam giữ tại tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh
(đang bị quản chế tại gia)
Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008
88 Đoàn Thể Cùng Lên Tiếng Khẳng Định Lập Trường về Hoàng Sa - Trường Sa
Ngày 15 tháng 12, 2007 -- Thêm nhiều đoàn thể ký tên vào bản Khẳng Định Lập Trường xác định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Tính đến sáng Thứ Bẩy, 15 tháng 12, 2007 (ngày giờ Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ), con số khởi thuỷ từ 45 đã tăng thành 88 đoàn thể, ở khắp thế giới, kể cả trong nước. Số lượng đông đảo ít thấy này đã nói lên sự đồng tâm, nhất trí của dân chúng Việt Nam trước việc Trung Cộng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngoài việc lên án hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Cộng, bản Khẳng Định Lập Trường đề ngày 7 tháng 12 năm 2007 này cũng vạch rõ tội trạng bán nước của đảng CSVN khi minh thị công nhận và tán thành tuyên bố về lãnh hải của Trung Cộng, gồm cả chủ quyền trên các quần đảo của Việt Nam.
Được biết các đoàn thể cũng đang phối hợp nghiên cứu một số công tác chung nhằm mục tiêu tố cáo hành động lấn chiếm trắng trợn của Trung Cộng với công luận thế giới, và vạch trần sự bất lực của đảng CSVN trong việc bảo vệ bờ cõi để dân chúng Việt Nam am tường.
Dưới đây là nguyên văn bản Khẳng Định Lập Trường và danh sách 88 tổ chức, đoàn thể với danh tánh người đại diện ký tên. Vì cần dịch bản Khẳng Định Lập Trường này ra Anh và Pháp ngữ để phổ biến đến chính giới và báo giới quốc tế, nên đây là lần đúc kết cuối cùng danh sách này./.
Bản Khẳng Ðịnh Lập Trường của Người Việt Trên Toàn Cầu
về Hai Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa
Ngày 2 tháng 12 năm 2007, nhà cầm quyền CS Trung Quốc lại đi một bước nữa trong việc lấn lướt chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khi tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Quyết định này là điểm kết của một chuỗi các hành động ngang ngược trong việc chiếm cứ các hải đảo của Việt Nam, gồm:
- Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, dùng hải quân cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa;
- Ngày 14 tháng Ba năm 1988, chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa;
- Ngày 14 tháng Tư năm 1988, tuyên bố sát nhập 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam.
Trước các sự kiện trên, chúng tôi, đại diện các đoàn thể Người Việt khắp nơi trên thế giới cùng lên tiếng thay cho những người Việt quan tâm đến đất nước:
- Cực lực lên án chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc, thể hiện cụ thể và thô bạo qua việc dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ và lãnh hải các nước lân bang;
- Hoàn toàn phủ nhận chủ quyền Trung Hoa trên các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
- Long trọng kêu gọi các quốc gia yêu chuộng hòa bình và công lý làm mọi cách để Trung Quốc hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về cho Việt Nam;
- Khẩn thiết kêu gọi dân chúng Việt Nam tích cực biểu tỏ thái độ phản đối hành vi ngang ngược của Trung Quốc, cụ thể nhất là tụ tập biểu tình trước sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc ở khắp nơi, đặc biệt tại Hà Nội và Sài Gòn.
Nhân đây, chúng tôi muốn nêu lên trách nhiệm to lớn của đảng CSVN trong việc làm mất lãnh thổ và lãnh hải vào tay Trung Quốc. Bằng chứng cụ thể là:
- Công Hàm ngày 14 tháng Chín năm 1958 do Phạm Văn Đồng ký, nhân danh Thủ Tướng Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã "công nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc".
- Nhà cầm quyền CSVN đã hoàn toàn im lặng trước việc Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa sau cuộc hải chiến diễn ra ngày 19 tháng 1 năm 1974 giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng Hoà.
Để có đủ khả năng bảo vệ giang sơn của cha ông để lại, dân chúng Việt
Ngày 7 tháng 12 năm 2007
Các đoàn thể chính trị:
1. Đại Việt Cách Mạng Đảng (Ô. Bùi Diễm, Chủ Tịch)
2. Đại Việt Quốc Dân Đảng (TS Phan Văn Song, Chủ Tịch)
3. Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Ô. Đỗ Thành Công, Phát Ngôn Nhân)
4. Đảng Tân Đại Việt (TS Nguyễn Ngọc Sảng, Chủ Tịch)
5. Đảng Thăng Tiến Việt
6. Đảng Vì Dân (Ô. Nguyễn Công Bằng, Đại Diện)
7. Hiệp Hội Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị, và Đa Nguyên (LS Đào Tăng Dực, Chủ Tịch)
8. Hiệp Hội Dân Chủ và Phát Triển Việt
9. Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Đại Diện)
10. Liên Minh Dân Chủ và Nhân Quyền Việt
11. Liên Minh Dân Chủ Việt
12. Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ (GS Nguyễn Ngọc Bích, Chủ Tịch)
13. Phong Trào Quốc Dân Việt
14. Tổ Chức Phục Hưng Việt
15. Tổ Chức Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản (BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ Tịch)
16. Việt
17. Việt
Các đoàn thể chuyên biệt:
1. Ban Vận Động Lời Kêu Gọi Dân Chủ (GS Nguyễn Thanh Trang, Đại Diện)
2. Đoàn Thanh Niên Hồn Việt (Ô. Nguyễn Xuân Hiệp, Đoàn Trưởng)
3. Đoàn Thanh Niên Đa Hiệu Pennsylvania và Phụ Cận (TS Đỗ Nguyễn Nhật Khải, Đoàn Trưởng)
4. Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức (Ô. Lê Quang Dật, Trưởng Ban Hướng Dẫn)
5. Gia Đình Quân Cán Chánh Việt Nam Cộng Hoà/ Hoà Lan (Ô. Lê Quang Kế, Đại Diện)
6. Hiệp Hội Công Nông Đoàn Kết Việt Nam (Ô. Huỳnh Long, Phó Chủ Tịch)
7. Hội Cử Tri Việt Mỹ (Bà Jackie Bông Wright, Chủ Tịch)
8. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam (GS Phạm Trần Anh, Phó Chủ Tịch)
9. Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị Tiểu bang Pennsylvania (Ô. Nguyễn Đức Nghĩa, Chủ tịch)
10. Hội Ái Hữu Sĩ Quan Trừ Bị Colorado (Ô. Hồ Thanh Danh, Hội Trưởng)
11. Hội Cựu Chiến Binh VNCH/ Michigan (Ô. Nguyễn Thanh Vân, Hội Trưởng)
12. Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Ontario, Canada (Ô. Nguyễn Văn Tấn, Chủ Tịch)
13. Hội Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Pennsylvania và Phụ Cận (Ô. Đỗ Đức Chiến, Hội Trưởng)
14. Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Montreal - Quebec - Canada (Ô. Lê Văn Châu, Đại Diện)
15. Hội Chiến Sĩ VNCH tại Austin và Vùng Phụ Cận, TX (Ô. Đỗ Văn Phúc, Hội Trưởng)
16. Hội Khoa Học Kỹ Thuật (TS Mai Thanh Truyết, Chủ Tịch)
17. Hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền Việt Nam (Bà Jane Đỗ Bùi, Đại Diện)
18. Hội Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Ontario, Canada (Ô. Trần Quốc Thiện, Hội Trưởng)
19. Hội Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Chế độ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp (Ô. Dương Văn Lợi, Chủ Tịch)
20. Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam – Dallas/Fort Wort, TX (Ô. Trần Văn Chính, Chủ Tịch)
21. Liên Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Âu Châu (Ô. Phạm Thìn, Liên Hội Trưởng)
22. Phong Trào Hiến Chương 2000, Canada (TS Nguyễn Bá Long, Tổng Đại Diện)
23. Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn (LM Nguyễn Hữu Lễ, Đại Diện)
24. Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại (Ô. Đỗ Như Điện, Điều Hợp Viên)
25. Phong Trào Hưng Ca Việt Nam (Ô. Huỳnh Lương Thiện, Phong Trào Trưởng)
26. Tập Thể Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa (GS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
27. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam (Ô. Nguyễn Trung Châu, Chủ Tịch)
28. Tổng Hội Cựu SVSQ/Đại Học CTCT (Ô. Nguyễn Văn Mục, Tổng Hội Trưởng)
29. Tổng Hội Hải Quân VNCH (Ô. Nguyễn Xuân Dục, Tổng Hội Trưởng)
30. Trung Tâm Điều Hợp Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Âu Châu (Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân, Trung Tâm Trưởng)
31. Trung Tâm Việt Nam Hannover, Cộng Hòa Liên Bang Đức (Ô. Lâm Đăng Châu, Đại Diện)
32. Ủy Ban Bảo Vệ Quốc Kỳ VNCH – Dallas/Fort Wort, TX (Ô. Cao Chánh Cương, Chủ Tịch)
33. Ủy Ban Phát Huy Chính Nghĩa Quốc Gia (Ô. Thái Hóa Tố, Chủ Tịch)
34. Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền Cho Việt Nam (Bà Nguyễn Hồng Liên, Chủ Tịch)
Các đoàn thể cộng đồng:
1. Cộng Đồng Việt Nam Hoa Kỳ (Ô. Nguyễn Văn Tần, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành, BS Trương Ngọc Tích, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát)
2. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (BS Nguyễn Mạnh Tiến, Chủ Tịch)
3. Liên Hội Người Việt Canada (Ô. Ngô Văn Út, Tổng Thư Ký)
4. Cộng Đồng Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoà Lan (BS Đào Công Long, Chủ Tịch)
5. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Arizona (Ô. Phạm Văn Sinh, Chủ Tịch)
6. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Lincoln, Nebraska (Ô. Nguyễn Xuân Đấu, Chủ Tịch)
7. Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Los Angeles (Ô. Nguyễn Duy Nghiêu, Chủ Tịch)
8. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Phụ Cận (Ô. Đỗ Minh Đức, Chủ Tịch Đương Nhiệm, LS Hoàng Duy Hùng, Chủ Tịch Đắc Cử)
9. Cộng Đồng Việt Nam Tiểu Bang Florida (Ô. Chu Bá Yến, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Bà Đồng Thanh, Chủ Tịch Ban Chấp Hành)
10. Cộng Đống Người Việt Tại Tampa Bay, Florida (Ô. Vũ Đình Vượng, Chủ Tịch)
11. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, TX (Ô. Thái Hóa Tố, Chủ Tịch)
12. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Fort Worth, TX (Ô. Nguyễn Xuân Hùng, Chủ Tịch)
13. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Lancaster PA và Vùng Phụ Cận (Ô. Lê Văn Chiếu, Chủ Tịch)
14. Cộng Đồng Việt Nam Bắc California (Ô. Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch)
15. Cộng Đồng Việt Nam Nam California (BS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
16. Cộng Đồng Việt Nam Oregon (Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch)
17. Cộng Đồng Việt Nam Miền Nam Florida (Ô. Lê Thanh Liêm, Chủ Tịch).
18. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Austin, Texas (Ô. David Nguyễn, Chủ Tịch)
19. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Đông Bắc Pennsylvania (Ô. Đỗ Đức Chiến, Phát Ngôn Viên)
20. Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, DC, Maryland và Virginia (Ô. Lý Văn Phước, Chủ Tịch)
21. Cộng Đồng Việt Nam Iowa (Ô. Phạm Cang, Chủ tịch)
22. Cộng Đồng Việt Nam tại Philadelphia và Phụ Cận (Ô. Nguyễn Đình Toàn, Chủ tịch)
23. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Hampshire (Ô. Cao Xuân Khải, Chủ tịch)
24. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tại San Antonio, TX (Ô. Nguyễn Trọng Can)
25. Cộng Đồng Người Việt Pomona Valley , CA (BS Võ Đình Hữu)
26. Cộng Đồng Việt Nam Minnesota (Cô Phượng Đào, Chủ Tịch)
27. Hiệp Hội Người Việt San Diego, CA (Ô. Trần Hùng Tiết, Chủ Tịch)